Kỳ diệu 50.000 đập nước trên đất Thái
|
Ít ai biết, để có được kỳ tích trên, người dân các tỉnh miền Bắc Thái Lan đã xây dựng nên 50.000 đập nước (họ gọi là chekdam) để giữ nước nuôi dưỡng rừng xanh, nuôi dưỡng con người.
Ông C.Krai bên 3 con đập ngăn nước tiêu biểu, trong một cánh rừng ở huyện Mae Ta, tỉnh Lampang.
Cỏ cây chen… nhà máy
Từ thủ đô Bangkok, đoàn nhà báo Việt Nam, Myanmar, Philippines và Indonesia đáp chuyến bay đi tỉnh Lampang vào một buổi trưa nắng như đổ lửa. Từ sân bay Lampang, chúng tôi di chuyển bằng ôtô hơn một giờ đồng hồ để tới nhà máy SCG Cement, tọa lạc tại hai huyện Jae Hom và Mae Ta. Mặc dù dân sống thưa thớt dọc hai bên đường, xe lưu thông không nhiều, nhưng chính phủ Thái đã xây dựng nên những cung đường hoàn toàn bằng bêtông chắc, bền, êm ái không thua gì trải nhựa. Bất ngờ, xe dừng lại ngay giữa một khu rừng rậm, xanh mát đến lạ thường. Chưa kịp thắc mắc, người lái xe cho biết, đã tới nhà máy SCG Cement. Ngay nơi chúng tôi dừng chân, ông Charoenchai Chalewkrieng Krai – kỹ sư trưởng bộ phận sản xuất SCG Cement – cho biết: “Đây là khu nhà nghỉ để đón khách tham quan và giới thiệu nhà máy. Còn khu văn phòng, phải đi khoảng 3km nữa... và nhà máy sản xuất chính - nơi có ống khói vươn khỏi chiều cao khu rừng - cách khu văn phòng nhà máy khoảng 5km nữa”. Thật vậy, nếu chạy xe ngoài đường, không ai biết trong khu rừng ven quốc lộ, trên diện tích hơn 100ha rừng rậm đang... lẩn khuất, tồn tại một nhà máy sản xuất ximăng, có công suất 1,2 triệu tấn/năm - nhà máy SCG Cement. Bởi lẽ, theo kỹ sư C.Krai, với mục đích tối thượng phải tuyệt đối bảo vệ rừng, thay vì phá, ủi một diện tích lớn khoảng 300ha rừng để xây dựng nhà máy tại một địa điểm duy nhất, thì SCG Cement đã được xây dựng rải rác, xen lẫn trong khu rừng; cho dù có bất tiện là nhà máy chính, văn phòng và nhà nghỉ, khu này cách khu kia gần chục cây số. Song, cái được rất lớn là giảm thiểu đến mức thấp nhất việc phá 300ha rừng. Tất cả các bộ phận từ nhà nghỉ, đến văn phòng, khu nghiền nguyên liệu, bộ phận đóng gói, nơi tập kết hàng... đều nằm dưới những tán cây rừng. Vì vậy, khi ngoài trời nắng nóng 30 – 32oC, thì tại SCG Cement, cảm giác mát mẻ do rừng xanh mang lại vẫn lan tỏa khắp nơi. Các hạng mục nhà máy đều chen chúc, xen lẫn kề cận mỗi gốc cây, tán lá của rừng xanh. Tôi còn nhận thấy một miệng cống ven con đường nội bộ, một cây xanh vô tình mọc cạnh bên, nhưng vẫn không bị chặt bỏ, mà vẫn được dưỡng nuôi, vươn thẳng lên trời. Ông C.Krai cho biết: “Bất kỳ ai đến đây đều không hề có cảm giác là nhà máy, mà luôn như thấy mình vào một khu nghỉ dưỡng, bốn bề là thiên nhiên hoang dã... Riêng tòa nhà văn phòng, mỗi năm, chúng tôi đón tiếp 2.000 khách tham quan”.
50.000 đập nước nhỏ Những ngày rong ruổi trên các vùng đất miền Bắc nước Thái, những người bạn Thái mới dần dà giải thích cho chúng tôi biết cái thành công mà SCG Cement có được ở trên là xuất phát từ một ý tưởng rất đơn giản, nhưng hết sức kỳ diệu của Nhà vua Thái Lan Bhumibol Adulyadej. Nhà vua từng nói: “Nước là cuộc sống”. Ông cam kết bảo vệ tài nguyên rừng và nước bền vững. Theo đúng chỉ dẫn của Nhà vua, SCG bắt đầu triển khai dự án “bảo tồn nguồn nước vì ngày mai”, nhằm xây dựng hệ thống quản lý nguồn nước hiệu quả, giúp giảm hiệu ứng nhà kính, cải thiện chất lượng cuộc sống... Năm 2003, dự án đã hiện thực hóa ý tưởng đập nước của Nhà vua ngay tại khu vực huyện Doi Saket, tỉnh Chiengmai. Song hành với việc hình thành nhà máy SCG Cement, hàng triệu người dân đã góp công xây dựng hàng ngàn đập nước nhỏ trên khắp các cánh rừng ở miền Bắc, với vùng lõi là tỉnh Lampang. Đập nước nhỏ ở đây thật giản đơn: Người dân tìm kiếm các con suối, khe nước rải rác trên các khu rừng, sau đó, họ dùng cây, tre, nứa phế thải, chặt thành những đoạn ngắn, kết lại với nhau và đóng thành bờ, ngăn dòng chảy của nước. Tùy đặc thù từng con suối, mỗi khe nước chảy, mà người ta ngăn ít, hay nhiều đập lớn hoặc đập nhỏ. Thành quả thật không ngờ, anh Chaltath Tongsalee – phụ trách cộng đồng của SCG – nói với tôi: “Tới năm 2011, cộng đồng người dân và các tình nguyện viên đã chung tay xây dựng và phục hồi 30.000 đập nước tại các cánh rừng đầu nguồn, thuộc các tỉnh Lampang, Chiengmai, Prae, Nan, Rayong, Saraburi, Kanchanaburi, Ratchaburi, Nakornratchasima và Korn Kaen”. Có 27 cộng đồng, 192 mạng lưới tình nguyện viên và khối liên minh, từ tất cả lĩnh vực tham gia vào dự án đập nước này. Chính xác đã có 37.200 người là các tình nguyện viên và người dân đã tham gia xây dựng đập nước. Trong những năm qua, hàng chục ngàn đập nước đã tác động tích cực đến hệ sinh thái, từ việc bảo tồn nguồn nước để phục hồi độ ẩm và cải thiện rừng, còn giúp giảm nạn cháy rừng từ 200 – 300 vụ/năm xuống còn 2 – 6 vụ/năm. Nguồn nước tự nhiên dồi dào trên các khu rừng (nhờ các đập nước ngăn dòng chảy), cũng thúc đẩy hệ sinh thái sinh sôi phát triển. Hiện tại, động vật hoang dã và rừng ngày càng phát triển với mật độ dày hơn. Số loài chim đã tăng từ 78 loài trong năm 1992, lên 155 loài vào năm 2011, chiếm 15% tổng số loài được phát hiện ở Thái Lan. Trong đó, có 106 loài địa phương và 49 loài chim di trú. Thậm chí, một số loài động vật, bò sát và côn trùng quý hiếm và gần như tuyệt chủng đã được tìm thấy gần các khu vực có đập nước như: Rắn hổ mang vua, đom đóm voi, châu chấu lá, bướm túi vàng, chuồn chuồn thác nước, công, diều hâu đen, rùa ruộng lúa và nhím khổng lồ. Hàng chục ngàn đập nước cũng cung cấp cho hàng triệu người dân lượng nước tiêu dùng, đủ cho mùa khô; đồng thời ngăn lũ mùa mưa. Trong trận lũ năm 2011 ở Thái Lan, các đập nước này đã giúp ngăn lũ tại làng Sa Sob Hok (huyện Jae Hom), làng Sam Ka, làng Na Yab, làng Baan Tong, làng Baan Don Fai và làng Baan Eik (huyện Mae Ta), trong khi những khu vực khác không có đập nước đều bị ngập nghiêm trọng. Theo kỹ sư C.Krai: Hàng chục ngàn đập nước giữ được độ ẩm, giữ nước nuôi rừng, giảm cháy rừng...; nói tóm lại, giữ được trọn vẹn hệ sinh thái rừng, gián tiếp tạo thu nhập cho người dân. Thí dụ: Nguồn nước dự trữ từ đập nước được sử dụng cho các hoạt động nông nghiệp trong cả năm. Dân làng có nhiều lựa chọn hơn trong nghề nghiệp như: Trồng thảo dược, trồng hoa màu, trồng lúa. Rừng cũng là nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, mang lại nguồn thức ăn dinh dưỡng như nấm, rau cải, thảo dược... Người dân có thể kiếm được hơn 500 bath (tương đương 300.000 đồng VN) mỗi ngày, từ việc hái nấm, lấy mật ong... Ở đây, từ 100 tổ ong rừng, có thể làm ra 200 chai mật ong và bán lẻ 250 bath/chai. Một số dân làng còn mở các trung tâm học tập cộng đồng hoặc cho khách du lịch thuê nhà ở theo hình thức homestay, giúp khách du lịch trải nghiệm thêm về cuộc sống của người dân nông thôn... Năm 2013 sắp tới, dự án trên sẽ đạt 50.000 đập nước, mà theo ông C.Krai, đó sẽ là điều kỳ diệu đối với người dân Thái Lan, trong vấn đề phát triển bền vững, bảo vệ môi trường sống, nâng niu, chăm sóc “Mẹ” thiên nhiên. Vĩ thanh Tôi chợt nhớ công luận ở Việt Nam trong thời gian gần đây đã liên tục phản ánh, cảnh báo những dự án công nghiệp có nguy cơ đe dọa tới hệ sinh thái tự nhiên. Đơn cử: Dự án xây dựng nhà máy ximăng Fico ở Tây Ninh sẽ “bức tử” 350ha rừng Lò Gò – Xa Mát; Dự án thủy điện Đồng Nai 6 và 6A sẽ “xơi tái” Vườn quốc gia Nam Cát Tiên... So sánh với những gì mắt thấy, tai nghe ở xứ người, trong những ngày rong ruổi khắp vùng miền Bắc đất nước Thái Lan, tôi mới thấy rừng, thiên nhiên, sông, nước ở đất nước mình mới... dồi dào, nhưng cũng bị... phung phí làm sao (!) Người dân Thái Lan cũng xây dựng nhà máy ximăng; thậm chí, ngành công nghiệp ximăng của họ còn nhiều và mạnh hơn Việt Nam, thế nhưng, cách họ làm thật... không còn gì để nói. Họ vẫn phát triển công nghiệp, nhưng không hy sinh rừng. Trái lại, rừng của họ còn xanh hơn, nước cho sự sống cũng được giữ gìn nhiều hơn... Quả thật, 50.000 đập nước nhỏ không chỉ là điều kỳ diệu của người dân Thái Lan, mà còn là bài học thật đáng để chúng ta suy ngẫm. |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét