Thứ Hai, 16 tháng 4, 2012

Rhodes đã làm gì cho Việt Nam

SÁCH VÀ ĐIM SÁCH
***
  Rhodes đã làm gì cho Việt Nam
Trần Quý
Phần 1
Nguồn khói lửa
Hai đế-quốc cùng nhau tàn phá
Alexandre de Rhodes

Trong thời chiến-tranh Đông-dương 1946-54, Pháp dùng không quân khủng-bố dân ở những vùng chúng chưa chiếm đóng được ở châu thổ sông Hồng. Chợ đang họp đông, người ồn-ào, máy bay đến gần họ mới nghe thấy tiếng, vội chạy đi tránh né. Mấy cái hố ẩn chẳng thấm vào đâu, thiếu chỗ, họ núp ở bờ ao, bờ đường. Phi công thi nhau bỏ bom vào chợ, bắn dọc theo các đường chung quanh. Máy bay hết thét xé bầu trời, dân bóp ngóp bò dậy, nỗi sợ hãi vô hạn chiếm hết tâm hồn, họ không để ý đến mình mặt mày lem luốc những bùn, quần áo xốc xếch hoặc ướt sũng. Nét mặt hãi hùng càng hoảng hốt thêm khi họ thấy những xác chết tung tóe, đầu một nơi, mình một nẻo, chân tay bay đâu mất. Bao nhiêu người khóc lóc đau khổ.
Dân quê ai còn sống vẫn phải lo mà sống. Trẻ con nhặt ở ngoài đồng vỏ đạn từ máy bay rơi xuống đem về chơi, chiếc nào to thì dùng làm bình, ngắt hoa ở bờ rào cắm vào. Nghe thấy người ta nói chiến lợi phẩm cũng nói theo, trẻ con sung sướng với chiến lợi phẩm của mình.
Rồi quân Pháp tràn tới, có cả lính lê-dương và lính ta. Một cậu bé mười lăm tuổi bị bắt giải đến ngôi chùa làng Ân-thi, Hưng-yên. Cậu ngơ ngác run sợ trông thấy một thanh niên bị treo tay chân trên cành cây lủng lẳng tựa con khỉ. Anh ta đau đớn rền rĩ van xin những quân lính oai quyền, lặp đi lặp lại: "Bẩm lạy các quan lớn, con có làm gì đâu!" nhưng lính bận canh gác, thổi nấu, chẳng ai thèm để ý đến lời anh. Các tượng Phật nằm ngổn ngang dưới đất, pho bị chặt mất đầu, pho bị cắt cổ dở dang.
Sáng hôm sau, quân Pháp dời chùa, tiến thêm, cậu bé bị bắt đi theo làm phu khuân vác. Dọc đường cậu trông thấy nhiều xác người nằm dọc trên ruộng khô bên lối đi. Một xác chui đầu trong chiếc cống nhỏ ngang con đường đất, nạn nhân mất vía khi bị lính Tây đuổi đã cố rúc vào ẩn nhưng cống nhỏ quá, hai vai không lọt. Nhà cửa trong xóm vắng teo, sông không bóng thuyền chạy tuy su hào thẳng tắp trên các luống, lấy vẻ xanh khoe công nông dân tưới bón vài ba hôm trước. Những cánh đồng xa tới hết tầm mắt chẳng một bóng người. Trời đất trầm ngâm chứng kiến cảnh nhân loại tương tàn.
Dân thiếu thốn trăm đường, cái gì dùng được là dùng, nhiều đồ thừa quân Pháp vất lại trong khi rút lui cũng rất quí. Những người biết chữ Pháp có dịp đọc báo Le Figaro để thưởng thức tin tức, bình luận, văn chương, chữ nghĩa. Vỏ đồ hộp dùng làm cái đựng, vỏ hộp cá tạm được, vỏ các thùng bánh bích-qui (biscuit) quí hơn.
Năm 1954, khi quân Pháp bại trận chờ ngày rút lui khỏi Bắc Việt, một di-tích lịch-sử thời nhà Lý ở chốn núi Nùng sông Nhị bị phá hoại. Cửu-long Lê Trọng Văn đã phanh phui ra những thủ-phạm là một nhóm người trong bọn lính Ca-tô (Catholic hay Công-giáo La-mã, gọi tắt là Công La, như thấy ở dưới đây, cũng gọi là Cong-giáo với "cong"nghĩa là "cong queo") ở Phát Diệm của giám mục Lê-Hữu-Từ và linh mục Hoàng Quỳnh. Khi tạm trú tại trường Thiếu Sinh Quân Hà-Nội để chờ phương tiện vô Nam họ đã đặt mìn giật sập chùa Một Cột (Cửu-long, trang 45).
Trước đó mấy năm, thiên-chúa của đạo Giê-su ra oai ở một đảo nhỏ trong lòng Tiền-giang. Từ Long-xuyên đi xe hơi tới chợ Mỹ-luông quận Chợ Mới, bỏ xe lại, đi đò sang bên kia sông là tới Cù-lao Giêng. Nhà thờ Ca-tô Cù-lao Giêng ở gần bờ sông, xa hơn hút nữa là nhà nữ tu cùng đạo, đi chưa tới một cây số là tới chùa ông Đạo Nằm. Cù-lao Giêng bốn bề là nước, sông Tiền-giang về mặt Cao-lãnh, sông Mỹ-luông, một nhánh Tiền-giang, về mặt Long-xuyên.
Khoảng đầu thập-niên 1950, có một ông ở vùng Xếp Cả Kích bên Cao-lãnh được dân chúng mệnh-danh là ông Đạo Nằm, trắng-trẻo, tai dài như tai Phật, tính tình hiền lành ai cũng quí mến. Người ta đồn là ông không bơi vẫn nổi trên mặt nước, bồng bềnh trên giòng Tiền-giang, nước ròng trôi lên, nước lớn trôi xuống. Có kẻ nghi là ông trêu thiên hạ, nằm trên cái phao gì đó cho nổi, bèn bơi ra sông, lặn xuống nước, tò mò rờ xem ông có kê gì ở dưới lưng chăng nhưng chẳng thấy gì cả. Dân Sài-gòn gom tiền góp của đem đến Cù-lao Giêng xây một ngôi chùa, đón ông đến trông coi nhang khói.
Đúng ngày khánh thành, chùa đang đầy thiện nam tín nữ thì một toán lính xông vào nổ súng. Ông Đạo Nằm và mấy người nữa tử nạn, nhiều người bị thương. Bà Năm Mẫn, năm 1997 trên bảy mươi tuổi, hiện sống tại Cù-lao Giêng cũng bị thương. Bác sĩ Bàng ở bệnh viện Long-xuyên chụp hình quang tuyến thấy bà Năm bị hai viên đạn găm vào xương sống lưng, khuyên không nên giải phẫu vì có thể đụng tới thần kinh, bà Năm nghe theo.
Cháu gái bà Năm ở California kể rằng thủ phạm là đám Cong giáo, cháu bà nhắc lại "Cong giáo" chớ không phải Công giáo. Giữa ban ngày ban mặt, đám đông nhận diện được những kẻ nổ súng: chẳng phải ai xa lạ mà là một số người trong bọn lính Việt hộ vệ các cha đạo tại nhà thờ Ca-tô Cù-lao Giêng đấy thôi. Đang lúc loạn ly, tố cáo chẳng đi đến đâu, chánh phủ dưới quyền người Pháp lờ đi, chẳng thủ phạm nào bị bắt, bị điều tra hay trừng phạt gì cả.
Cháu bà Năm thuật chuyện này nói rằng đây là một niềm uất hận quê hương đáng cho mọi người biết.
Đúng lúc quân Pháp khủng bố dân Việt, phá phách chùa chiền như vậy thì năm 1950, quốc-trưởng Bảo-đại, tay sai của đế quốc Pháp, đã ký đạo dụ số 10 ban đặc quyền cho các hội tuyên-truyền đạo Giê-su, lại xếp các tôn-giáo khác trong nước đồng hạng với những hiệp hội thể thao hay giải trí (Tuệ Giác, trang 130-131).
Trước đó hai năm, giám-mục Pháp Henri Chappoulie cho xuất bản Tập Nhì bộ Aux Origi- nes d’Une Église - Rome et Les Missions d’Indo- chine aux XVIIe Siècle (Nói về Nguồn-gốc Một Giáo-hội – Rô-ma và Các Hội Truyền-giáo Đông dương vào Thế-kỷ 17) vì các giáo-sĩ đạo Giê-su theo gót quân viễn-chinh Pháp quay lại Việt-nam tiếp tục mở mang nước thiên chúa Giê-hô-va đang cần tài liệu để tiếp tục công việc của Rhodes và những giáo-sĩ thuộc hội Paris Truyền-giáo Quốc-ngoại. Tập Nhì ấy có toàn bộ tác-phẩm Phép Giảng Tám Ngày của Rhodes bằng tiếng Pháp. Tập Nhất đã được xuất bản năm 1943, khi thực dân Pháp đang cai-trị Đông-dương.
Lính Pháp đốt chùa, phá tượng khắp nơi trên nước Việt-nam; lính đạo Ca-tô bắn giết người trong chùa ông Đạo Nằm; khu nhà thờ Phát-diệm có lính cộng-tác với Pháp; lính của cha đạo Hoàng Quỳnh dật mìn sập chùa Một Cột; Bảo-đại ra dụ ban đặc quyền cho cuộc tuyên-truyền đạo Ca-tô; giám-mục Pháp Chappoulie xuất bản sách vừa thóa mạ các đạo cổ-truyền trên đất Việt, vừa kể công các giáo sĩ ở Viễn-đông. Như sẽ trình bày dưới đây, tất cả những sự việc ấy đã được thực hiện theo ý muốn của cặp đôi đế-quốc giáo-quyềnVatican với đế-quốc thế-quyền Pháp chớ không ngẫu nhiên cùng xảy ra trong thời gian thực dân có uy lực ở Đông-Dương.
Đạo Giê-su Ki-tô
Đạo Giê-su có nhiều giáo-phái, Ca-tô là một. Đứng đầu phái này là giáo-hoàng, tuy ông chỉ là tiểu vương một xứ nhỏ tí teo là Vatican, ông có nhiều thế lực trên chính trường thế-giới vì dân một số nước Âu-châu và một số thuộc địa cũ của họ theo giáo-phái ấy. Vatican muốn thực hiện lời Giê-hô-va để kiềm chế con người đồng thời mở mang một đế quốc giáo quyền.
Các giáo-phái đạo Giê-su đều coi những lời trong Thánh-kinh của họ là thiêng-liêng, là do chính Giê-hô-va đọc hoặc linh ứng cho người ta viết ra. Hiểu nguồn gốc đạo Giê-su là một điều cần thiết để xét hành động của những người làm nghề giáo sĩ như Rhodes. Bộ Thánh-kinh viết đã luộm thuộm lại đầy những điều mê-tín, gian dối nên trở thành một mớ bòng bong, nhưng chịu khó gỡ mối ta có thể phần nào tìm ra lai lịch đạo ấy. Nhiều sử gia đã phân tích bộ đó, đồng thời nghiên cứu nhiều văn liệu khác, soạn nên những tác phẩm sáng sủa về lịch sử đạo Giê-su.
Thiên chúa Giê-hô-va
Khoảng thế kỷ 14 tiền dương-lịch, khi dân Do-thái mới đến lập nghiệp ở vùng Palestine, họ còn man rợ sống bằng nghề giặc cướp và tin theo chế độ giáo quyền, mù quáng tuân lời các giáo sĩ. Giáo sĩ dựa theo quan niệm độc thần của một vị vua Ai-cập, lập nên đạo thờ Giê-hô-va ("thần") Sabaoth nghĩa là "thần các đội quân". Sau này giáo-hội Giê-su Ki-tô vẫn duy trì thần đó làm thiên chúa. Giáo sĩ ăn trên, ngồi chốc, vua chỉ là một tên quân cho họ sai đi ăn cướp. Khi vua có binh lực mạnh lấn áp giáo sĩ thì những kẻ này khơi lòng mê tín của dân để chống lại. Trải qua các thế kỷ, giáo sĩ gom góp những văn liệu về dã sử, thần quyền, thi ca thành một bộ sách họ tôn làm Thánh-kinh. Điều tai hại nhất cho loài người là giáo-hội Do-thái cũng như các giáo-hội Giê-su coi bộ sách ấy là chính lời và luật thiên-chúa, chiếu vào đó để dự tính cũng như hành động.
Giê-hô-va ra lệnh cho dân Do-thái diệt các dân tộc láng giềng khi chiếm được một thành của họ: Giê-hô-va, thiên-chúa các ngươi, phó thành ấy vào tay các ngươi. Các ngươi hãy giết hết đàn ông bằng lưỡi gươm. Các ngươi phải chiếm hết đàn bà, trẻ con, súc-vật và mọi thứ ở trong thành, tức là mọi của cướp được, làm của-cải của các ngươi. Các ngươi hãy hưởng những của cướp được ấy, vì thiên-chúa của các ngươi đã cho các ngươi. Các ngươi hãy cư-xử như thế với những thành ở xa-xôi, không thuộc các dân-tộc ở ngay đây. Nhưng trong các thành của những dân-tộc ở đây mà Giê-hô-va, thiên-chúa các ngươi, đã ban cho các ngươi làm sản-nghiệp, thì chớ để sống một vật nào biết thở (Thánh kinh, sách Deuteronomy, chương 20, từ câu 13 đến câu 16). Vì là thần ăn cướp, thiên chúa Giê-hô-va không chút xấu hổ, dám mở miệng đích thân đòi quân cướp chia chiến lợi phẩm, đặc biệt là có lần đòi nộp một lúc 32 gái trinh sau khi đã hạ lệnh giết hết đàn ông, đàn bà đã ăn nằm với đàn ông (Thánh-kinh, Dân-số 31:17-18 và 31:40). [Xin coi phần trích dẫn tiếng Anh-phần trích dẫn trang 291]
Giê-hô-va dặn kỹ càng tín đồ phải diệt các đạo khác: "Phàm những dân tộc nào các ngươi đuổi đi được, các ngươi phải phá sạch những nơi họ thờ thần của họ, trên núi cao, trên đồi, dưới bóng cây xanh; các ngươi phải đập tan bàn thờ, đập vụn cột đền, lấy lửa đốt rụi các tượng của họ; các ngươi phải đục khoét cho mất hết hình trạm trổ các tượng thần của họ và xóa tên các thần ấy khỏi chỗ đó (Deut. 12:2-3)". Vậy chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi bọn lính Ca-tô cuồng tín giật mìn phá chùa Một Cột, xả súng giết người trong chùa ông Đạo Nằm.
Ai theo đạo khác là phải diệt, dù là người trong gia đình, đó là ý muốn của thiên chúa Giê-hô-va, thần dâm ác này ra lệnh:
Khi anh em một mẹ với ngươi, hay con trai ngươi, hay con gái ngươi, hay vợ yêu mến của ngươi, hay bạn chí thân của ngươi, kín đáo xúi giục ngươi, bảo ngươi rằng: Ta hãy đi thờ các thần khác, đó là những thần mà ngươi và tổ tiên ngươi chưa hề biết, đó là các thần của những dân tộc sống chung quanh ngươi, hoặc gần hoặc xa, từ đầu này tới đầu kia mặt đất, ngươi hãy chớ theo nó hay nghe nó. Mắt ngươi đừng thương nó. Ngươi chớ sót sa che chở nó mà ngươi phải giết nó. Ngươi phải ra tay giết nó trước rồi mới tới tay dân chúng (Deut. 13:6-9).
Ấy thế mà bọn cuồng tín răm rắp nghe lời thần dâm ác đó, họ đã có lần giết anh em, vợ con, bạn hữu, một lúc ba ngàn người chỉ vì những người này thờ thiên chúa E-lờ, tượng trưng bằng tượng con bò đúc bằng vàng (Exodus 32:15-29).
Chúa cứu thế Giê-su
Thời thế kỷ 1 dương lịch, khi quân La-mã mới diệt đế-quốc Hi-lạp xong và đất Palestine nhỏ bé đã phải nằm dưới quyền cai trị của họ, một người thợ mộc nhà quê tên là Giê-su khoảng ba mươi tuổi bỏ nhà đi sống lang thang. Sau khi ông bị giết, một nhóm người tôn ông là chúa cứu-thế, thờ cả Giê-hô-va, cả ông, lập nên một giáo-phái Do-thái. Giáo-phái ấy biến thành một đạo riêng gọi là đạo Ki-tô, đối lập với đạo Do-thái (Trần Quí, trang 37).
Những lời truyền miệng trong dân gian, những lời giáo sĩ bịa đặt thêm để bịp đám dân mê-tín tạo thành những sự tích về Giê-su. Khoảng bốn mươi năm trở đi sau khi ông chết, người ta chép những điều đó thành sách, các sách ấy thường được gọi là phúc-âm hay tin lành. Bốn sách như thế được các giáo-hội Giê-su chính thức dùng gọi là sách thánh Mác, sách thánh Ma-thi-ơ, sách thánh Lu-ca và sách thánh Gioan. Tác-giả toàn là vô danh nhưng để lòe tín đồ, những giáo-hội đạo Giê-su bảo rằng những sách ấy được viết bởi chính các tông đồ Mác, Ma-thi-ơ, Lu-ca, Gioan là các đệ-tử của Giê-su, đã từng sống với ông, biết rõ ông. Nhiều điều trong những sách ấy chống tôn giáo hoặc không có tính cách tôn-giáo cho ta thấy các tác-giả mê muội hiểu lầm đó là những điều cao siêu, thiêng liêng lắm, vượt sức hiểu biết của họ, nên họ cứ thế chép lại không suy nghĩ. Nhờ những điều ấy, sau khi ta lột bỏ áo chúa cứu thế giả tạo của vai Giê-su trong những phúc-âm đi, phần nào nguyên hình Giêsu-thật hiện ra.
Giêsu-thật đã trên ba mươi tuổi, chớ bé bỏng gì, mà mẹ cứ phải lẽo đẽo đi theo. Có lần người nhà phải đi tìm ông vì ông nổi cơn điên (Mark 3:21). Một đám đông nói: "Người này bị ma ám đây mà!" (Mark 3:30), như ngày nay ta biết, dân gian thường tưởng lầm người điên là bị ma làm. Giê-su có những ảo-giác, hoang tưởng như trông thấy quỉ, nghe thấy tiếng quỉ, lại nghĩ rằng mình bị quỉ mang lên mái nhà, lên đỉnh núi (Ma-thi-ơ 4:1-10), toàn là những triệu chứng bệnh điên điển hình, mà bị như thế cả tháng, cả năm chớ không phải chỉ một vài ngày (Trần Quí, trang 108).
Thỉnh thoảng Giê-su nói được những câu khôn ngoan chứng tỏ có lúc ông tỉnh. Sức học kém, ông kể một chuyện lịch-sử Do-thái nhỏ ra cũng sai, ông nói rằng Abiathar là giáo-sĩ trưởng khi vua David bị đói phải vào đền thờ xin ăn bánh thánh, nhưng đúng theo sách chép thì giáo-sĩ trưởng bấy giờ là Ahimelech (Mác 2:26 và I Samuel 21:6).
Giê-su làm nhiều điều ngang tàng dại dột, phá phách của cải của người ta, bị dân Do-thái giận, bắt giao cho quan La-mã, bị án tử hình rồi bị đóng đinh trên cây thập ác cho chết. Nếu ông sống trong thời đại văn minh, thuốc đã hay, luật pháp lại nương tay cho kẻ bệnh tâm thần, thì đâu nên nỗi.
Giê-su nói nhiều câu chứng tỏ ông giễu cợt nước trời của Gioan Rửa Tội (John the Baptist), người đã rửa tội cho ông, nói chi đến việc ông lập một đạo riêng. Ông nói: "Nước trời giống như gì nào? Ta hãy ví nước trời với gì đây? Nước trời ví như hạt cải người ta lấy ném ra vườn, nó mọc thành cây to, thế là chim trời đến làm tổ trên cành" (Lu-ca 13:18-19). Rau cải nào mọc thành cây mộc với cành to lớn cho chim đến làm tổ. Chim nào dại dột làm tổ trên cành rau cải khi ngày ngày vườn có người ra tưới nước, chăm cây.
Giêsu-thật không làm nên gì đáng nói cho nhân loại nhưng vai Giê-su trong Thánh kinh đã gây ảnh hưởng lớn trên khắp năm châu. Sau khi Giê-su chết, đồng bọn sợ liên-lụy, họ tìm lối thoát, bịa ra là ông sống lại, bay lên trời và họ lập nên một giáo-phái thờ ông. Dân chúng lạc hậu tin liền, thế là che chở họ. Họ đã thoát hiểm lại trở nên phát tài, có địa vị. Giáo-phái phát triển nhanh hơn sau khi một giáo sĩ là thánh Paul bịa ra thuyết cứu-thế. Giê-su trở thành một chúa cứu-thế chết theo chương trình của Giê-hô-va. Thần này phái ông xuống trần gian ban ơn cứu rỗi bằng cách lấy cái chết của mình để rửa tội hộ cho nhân loại. Đánh đúng tâm lý con người, Paul rất thành công.

Giám Mục Tây rước lể
Giáo-phái Giê-su viết phúc âm, viết nhiều sách nữa tạo thành một bộ sách mới thêm vào bộ Thánh-kinh Do-thái. Họ gọi Thánh-kinh Do-thái là Cựu-ước, bộ sách mới là Tân-ước. Họ tâng Giê-su lên ngang hàng với Giê-hô-va, họ gọi thần này là chúa cha, Giê-su là chúa con, lại bảo rằng chúa cha với chúa con là một. Họ bịa chuyện rất sơ sài, ấy thế mà tín đồ say mê. Vai Giê-su cứu-thế được coi là có tài tiên-tri, Ngài nói trước rằng Ngài sẽ chết rồi sau ba ngày, ba đêm Ngài sống lại. Ngài phán: "Giô-na đã ở trong bụng cá voi ba ngày ba đêm thì con của người cũng thế, sẽ ở trong lòng đất ba ngày, ba đêm" (Ma-thi-ơ 12:40). Nhưng họ khôn vặt mà không ngoan, để lòi cái đuôi bịa chuyện. Theo sách Mác, chừng 36 giờ sau khi Giê-su chết, chỉ sau chưa tới hai chớ không phải ba đêm thì xác ông không còn nằm trong mộ nữa (Mác 16:2-6).
Vai Giê-su thề thốt: "Đừng tưởng ta đến để phá luật-pháp hay lời các nhà tiên-tri. Ta đến không phải để phá mà để thực-hiện toàn-vẹn. Ta thề mà nói rằng chừng nào thế-gian còn, trước khi thế-gian tàn, một dấu chấm, một nét phảy trong luật-pháp cũng không mất đâu" (Ma-thi-ơ 5:17-18). Luật-pháp là những lời trong Ngũ-kinh tức là trong năm cuốn sách đầu bộ Thánh-kinh; lời các nhà tiên-tri là lời những người như Samuel; nói khác ra, Giê-su dạy tín-đồ phải thi-hành đúng từng lời từng chữ trong bộ Cựu-ước. Giáo-hội Giê-su nào cũng muốn duy trì nguyên vẹn sự thờ Giê-hô-va, nhưng giáo-hội nào cũng đòi tín đồ phải thờ trong khuôn khổ của họ, đồng thời phải coi tất cả những giáo hội khác là sai lầm.
Chính-sách đế-quốc của Vatican
Năm 1493, Giáo-hoàng Alexandre VI vạch một đường Bắc Nam 100 dặm về phía Tây quần đảo Azores làm ranh giới chia địa cầu thành hai; ông dớ dẩn không nghĩ tới việc chia hai thì cần vạch hai đường như vậy chớ không phải một. Ông ra sắc lệnh giao quyền cai-trị và truyền-giáo đến các xứ phía Đông đường ấy cho Bồ-đào-nha, phía Tây đường ấy cho Tây-ban-nha. Phi-châu, Á-châu thuộc quyền Bồ-đào-nha, còn Mỹ-châu thuộc quyền Tây-ban-nha. Các mảnh đất như Goa ở bờ phía Tây bán đảo Ấn-độ, Malacca trên bán-đảo Mã-lai, Macao trên nước Trung-hoa do Bồ-đào-nha lấy được từ trước thì Bồ cai-trị đã đành. Nhưng làm gì với Phi-luật-tân đây, Tây-ban-nha đã chiếm được rồi đời nào chịu nhường cho Bồ dù Cha dưới đất đại-diện Cha trên trời bảo. Tây-ban-nha cãi rằng Phi-luật-tân ở phía Tây vạch chia. Từ Tây-ban-nha cứ đi mãi về phía Tây, vượt qua eo biển Magellan, qua Thái-bình-dương cũng tới Phi-luật-tân thật. Tòa thánh Vatican lờ chuyện ấy đi.
Tuy dâm-dật kém thiên chúa của ông, giáo-hoàng Alexandre VI đã có ít ra là bảy con khi còn làm hồng-y giáo-chủ bên Tây-ban-nha; Lu- crèce Borgia là một trong bốn người con ông có với bà tình nhân tên làVannoza. Ông hối-lộ để được bầu làm giáo-hoàng, phung-phí tiền tứ phương nộp về cho tòa thánh, dùng thế lực, của cải của giáo-hội gây dựng quyền hành, sản nghiệp cho con cái, họ hàng. Khi làm giáo-hoàng, ông đem Lucrèce gả chồng nhiều lần. Một chồng cũ của nàng là Giovanni Sforza phàn nàn rằng ông loạn luân với nàng. Ông rất cần tiền, rất cần hậu thuẫn của các vua chúa dưới quyền ông, lại muốn họ đem võ lực mở mang đế-quốc giáo-quyền của ông khắp thế giới.
Giám mục Henri Chappoulie xuất bản tập nhất bộ sách Aux Origines d’Une Église nói trên năm 1943, khi thực-dân Pháp vẫn còn cai trị dân Việt và các giáo-sĩ đạo Giê-su vẫn còn đầy lòng tin tưởng vào quyền lực của thực-dân ở các nước bị trị. Ông không cần e dè viết trần sự thật ở ngay trang thứ nhất phần mở đầu cuốn sách:
Trong khắp các thời đại lịch sử của nước giáo-hoàng, nước ấy đã coi việc truyền bá tin phúc-âm đến mọi người là nhiệm vụ chính yếu. Vào thế kỷ 16, trong thời-gian nhiều cuộc khám-phá lớn xảy ra, Rô-ma bỗng dưng bị đặt trước những khối lớn nhân loại trải rộng trên những vùng đất chưa rõ to nhỏ bao nhiêu; và chỉ dựa vào phương tiện của mình thì nước giáo-hoàng không tài nào đi đến được. Các giáo hoàng nhận thấy không có cách gì khác để hoàn thành nhiệm vụ tông đồ ngoài cách giao việc truyền bá phúc-âm đến các xứ xa xôi cho những vua chúa nào đã khám phá ra các xứ đó cho Âu-châu thuộc đạo Giê-su Ki-tô. Tàu bè của họ đưa các thừa sai đi, khí giới của họ bảo vệ các thừa sai, những của cải họ mới kiếm ra nuôi nấng các thừa sai. Để trả công cho việc phục-dịch đó, (nước giáo-hoàng) cho vua chúa được quyền vừa lựa chọn những kẻ chỉ huy, vừa điều khiển sự bành trướng sau này của các giáo hội. Quan niệm ấy đẻ ra quyền các vua Tây-ban-nha và Bồ-đào-nha được bảo-hộ Tây Ấn-độ (châu Mỹ La-tinh), Đông Ấn-độ (xứ Ấn-độ ngày nay), Phi-châu. (Chappoulie, tập 1, trang xi).
Lịch-sử thế-giới nói chung, lịch-sử Việt-nam nói riêng và gần đây, cuộc chiến-tranh Đông-dương 1946-54, cho thấy đế quốc giáo quyền Vatican đã cộng-tác chặt-chẽ với đế-quốc thế quyền để vừa mê-hoặc dân các nước hậu tiến, vừa dùng võ lực đàn áp họ, cốt để bóc lột họ đúng như chánh-sách Giám-mục Henri Chappou- lie mới nói trên. Tuy vậy, lịch sử còn cho thấy, hai bọn ấy dù nhiều khi cộng tác với nhau, song vẫn có lúc đi lẻ trong công cuộc xâm lăng; dù nhiều khi chung sống với nhau để cùng ăn cướp, song vẫn có lúc ruồng rẫy nhau để thủ lợi cho riêng mình; dù nhiều khi ôn hòa chia nhau chiến lợi phẩm, song vẫn có lúc kình địch nhau hay tranh nhau của cải chiếm được của dân bị-trị. Họ giống như cặp anh chị lấy nhau vì tham lợi, chẳng vì mảy may yêu đương.
Phần 2
Alexandre de Rhodes - Rhodes gốc Do-thái Tây-ban-nha
Tổ tiên Alexandre de Rhodes là người Do-thái ở Aragon, Tây-ban-nha, bị chính-phủ đạo Ca-tô bên ấy ngược đãi nên bỏ chạy sang Avignon, miền Nam nước Pháp ngày nay, nơi ông chào đời năm 1591. Ấy thế mà ông theo đạo Ca-tô, dòng Tên. Ông học tiếng Nhật, định sang đó sinh sống bằng nghề tuyên truyền đạo của mình. Trung-tâm dòng Tên ở Viễn-đông là Ma-cao, nên dù hành nghề ở xứ nào trong vùng, các giáo-sĩ của dòng cũng phải lui tới đó để nhận lệnh cấp trên; phương-tiện di chuyển là tàu thuyền. Gặp khi chính phủ Nhật-bản đang tiễu trừ tới tận diệt người theo đạo Ca-tô, dòng Tên thấy đất Việt là nơi tương đối dễ sống hơn, bèn gửi giáo sĩ sang.
Rhodes gốc dân Do-thái ở Tây-ban-nha. Lịch sử Tây-ban-nha gắn bó với lịch sử đạo Ca-tô. Thế kỷ 8, dân Hồi giáo bên Ma-rốc vượt biển sang chiếm phần khá lớn bán đảo Iberia. Họ dễ dãi với các đạo thờ thần Giê-hô-va nên dân Do-thái và dân Ca-tô sống yên lành dưới quyền họ. Họ lập nên một nền văn hóa cao vượt hẳn văn hóa đạo Giê-su, đem cho châu Âu những ảnh hưởng quan trọng về tư-tưởng, về khoa-học nhưng vào thế kỷ 13, họ suy yếu chỉ còn giữ được một phần đất nhỏ về miền Nam còn phần Bắc do các lãnh chúa phong kiến Ca-tô cai trị. Đến thế kỷ 15, hầu hết các lãnh chúa phong kiến miền Đông Bắc của bán đảo nằm trong địa phận xứ Aragon, còn các lãnh chúa miền Tây Bắc nằm trong phạm vi xứ Castile. Nữ hoàng Isabella cai trị xứ Castile kết hôn với Ferdinand, con vua xứ Aragon. Năm 1479, Ferdinand nối ngôi cha, hai vợ chồng cùng cai trị Aragon và Castile. Đó là lịch sử cuộc hình thành nước Tây-ban-nha.
Đầu năm 1492, vua Hồi-giáo đầu hàng Castile, dân Hồi sống dưới quyền người Ca-tô không được may mắn như dân Ca-tô sống dưới quyền người Hồi ngày trước. Tổng giám-mục Hernando de Talavera xúi nữ hoàng Isabella bắt họ phải đổi đạo. Francisco Jiménez de Cisneros, tuyên úy của nữ hoàng, sau này được thăng hồng y giáo-chủ, đã bày ra kiểu ép đổi đạo tập thể. Dân Hồi nổi lên chống năm 1499 nhưng năm sau loạn bị dập tắt, những người không chịu đổi đạo bị trục xuất sang Ma-rốc.
Dân Do-thái, đồng bào của Giê-su, vốn được dân Hồi đối đãi nhân hậu, bây giờ bị những kẻ thờ ông đàn áp khắc nghiệt. Theo giáo-lý đạo Giê-su, Giê-hô-va cho con là Giê-su xuống chết tạm ở thế-gian mấy ngày để chuộc tội hộ loài người. Ví như dân Do-thái thời xưa có kết tội Giê-su, khiến ông bị quan La-mã đem giết đi, theo giáo lý ấy họ chẳng phạm tội gì với đạo Ca-tô cả mà họ còn có công là đằng khác, vì họ đem cho Giê-su cơ hội để chết theo chương trình của Giê-hô-va. Nhưng nhiều tín đồ đạo Ca-tô, vốn quen uống máu ăn thịt Giê-su, gọi là ăn bánh thánh, đã đua nhau làm thịt đồng bào của ông (dân Do-thái) trong gần hai ngàn năm.
Năm 1478, giáo-hoàng Sixtus IV ban sắc lệnh cho phép Tây-ban-nha lập tòa án đạo để xét xử những conversos (dân Do-thái đã đổi sang đạo Giê-su) phạm tín tội. Năm 1492 Tomás de Torquemada, một converso, quan toàn-quyền tòa án đạo Ca-tô đầu tiên, xúi vua trục xuất hết những người Do-thái không chịu đổi đạo như ông. Một số khá lớn conversos bị tình nghi là giả đổi đạo nhưng tình thực vẫn còn ngấm ngầm theo đạo cũ. Họ bị tố cáo, bắt bớ, tra khảo; khoảng sáu ngàn người bị giết, phương pháp hành hình thường là thiêu sống. Một số conversos trở thành mộ đạo Giê-su; họ theo dòng Alumbrados (Illuminists, Chiếu minh), hay để noi gương giáo sĩ Anh Erasmus, theo dòng Erasmians. Dẫu đi tu cũng vẫn không thoát, họ vẫn bị tòa án đạo truy lùng khiến nhiều người phải bỏ xứ mà đi.
Torquemada, Rhodes gốc đạo Do-thái, tổ tiên vốn bị giáo-hội Ca-tô ngược đãi tàn nhẫn, thế mà họ đổi sang đạo này rồi hành động để tỏ lòng mộ đạo hơn cả những tín đồ Ca-tô gốc là một điều đáng chú ý. Các nhà tâm-lý nói là họ "đồng-hóa với kẻ ăn hiếp"(identifying with the aggressor). Khi đồng hóa với kẻ ăn hiếp mình, nạn nhân cảm thấy mình thuộc phe mạnh, thuộc phe những kẻ đi ăn hiếp, thế là yên ổn trong lòng hơn. Dĩ nhiên những kẻ ấy hoặc không có hoặc bán rẻ lương-tâm nên coi đồng bào của mình cũng là kẻ thù.
Rhodes theo dòng Tên
Rhodes theo dòng Tên (Jesuite). Dòng Tên do Ignatius thuộc tộc Loyola lập ra. Ignatius sinh năm 1491 vùng Basque, Tây-ban-nha. Năm 1521, khi còn là quân nhân, ông bị một trái đạn đại-bác của đối-phương, quân Pháp, gây thương tích ở cẳng phải. Vụ chữa xương gãy không được hoàn hảo nên người nam nhi thọt sinh ra say đắm đạo Ca-tô.
Năm 1534, Ignatius cùng năm bạn đồng song ở Đại-học Paris, Francois Xavier là một, lập ra dòng Tên; năm sau dòng được giáo-hoàng Paul III thừa nhận. Một trong các điều lệ dòng là tuyệt đối tuân lời cấp chỉ huy, nhất là giáo hoàng. Chỉ mấy tháng sau khi thành lập, Ignatius gửi Xavier với ba người nữa sangViễn-đông tuyên truyền đạo Ca-tô. Năm 1556, khi Ignatius qua đời, dòng Tên có độ một ngàn người; năm 1626 có tới 15.544, trong đó có một số đến tuyên truyền tại Việt-nam.
Ignatius lập ra dòng Tên là để củng cố lại sức mạnh của Vatican sau khi giáo hội ấy bị sự xuất hiện của các giáo-hội Tin Lành làm suy yếu. Cuộc thành lập dồn dập các giáo-hội Tin Lành được gọi là phong-trào Cải-cách nên cuộc phục-hồi uy-quyền của giáo-hội Ca-tô được gọi là phong-trào Phản Cải-cách. Dòng Tên là con đẻ quan trọng nhất của phong trào này.
Đầu thế kỷ 15 là thời giáo-hội Ca-tô La-mã đầy uy quyền ở Tây Âu, thủ lãnh giáo-hội sống huy hoàng ở Vatican, tha hồ thị oai tác phúc, dân chúng run sợ đã đành, vua chúa cũng phải kiêng nể họ. Khi lên ngôi, vua phải cố xin xỏ đút lót làm sao cho giáo hoàng công nhận, nếu không, ngai vàng chắc chắn lung lay. Dân gian bị dạy mãi thành ra tin rằng giáo hoàng ở trần thế là người đại diện thiên chúa Giê-hô-va ở trên trời nên một khi người này ngưng công nhận, vua lập tức bị những kẻ thù lợi dụng cơ hội quấy động sự mê tín của quân sĩ, của dân chúng, để chống lại, vua bị lật đổ như không.
Nắm quyền độc đoán trong tay, người ta dễ làm càn, đời là vậy. Muốn xoay tiền dân, giáo-hội Vatican bày ra nhiều mánh khóe, một trong các mánh khóe là bán các món ân-xá (indulgences).
Một khi phạm tín tội, người theo đạo Ca-tô tin rằng họ không có hi vọng lên được thiên đàng sau ngày tận thế, viễn ảnh đời đời bị đầy trong hỏa ngục nằm trước mắt. Tín tội là tội xét theo lòng tin, đương nhiên không vâng lệnh gì của Giê-hô-va cũng là phạm tín tội, một cách để chuộc tội là bỏ tiền ra mua ân xá. Năm 1476, giáo-hoàng Sixtus IV cần tiền nên đặt ra một món ân xá mới, đó là kêu gọi dân chuộc tội cho cha mẹ, ông bà hay người thân hiện đang nằm trong luyện ngục. Dân chất phác tin rằng bỏ tiền mồ hôi nước mắt của họ vào thùng chuộc tội là cứu được người quá-cố thoát khỏi nơi đày ải ấy. Giáo-sĩ Johann Tetzel dòng Đa-minh quảng cáo rằng: "Tiền vừa reng ở thùng này, hồn vung khỏi hỏa ngục ngay tức thì!" (Durant VI, trang 339).
Luther, một giáo-sĩ dòng Augustin, bực bội sẵn về sự thối nát của Vatican, không chịu nổi các vụ làm tiền trắng trợn như thế. Năm 1517, ông liều mạng chống đối, đã dán lên cánh cửa nhà thờ Palast tại Wittenburg một bản 95 điều cần nói. Dân chúng hưởng ứng lời kêu gọi của ông, chống lại giáo hoàng. Ở nhiều nơi trên đất Đức, Pháp, Thụy-sĩ, giáo sĩ đua nhau lập ra các giáo hội Tin Lành, cũng được gọi là các giáo hội Cải-cách. Các giáo hội Tin Lành vẫn tin vào Giê-su, vào Giê-hô-va nhưng không phục tòng Vatican. Vua chúa kẻ theo phe này, người theo phe nọ, bản đồ Âu-châu trở thành một thứ da beo, xứ thì Ca-tô, xứ thì Cải-cách.
Phe Ca-tô kết tội phe Cải-cách là nói sai lời Giê-hô-va, gọi họ là bọn tà-giáo. Phe Cải-cách cãi lại rằng chính phe Ca-tô nói sai lại chê là thờ thần tượng, vì phe này thờ tượng chúa hài-đồng, Ma-ri-a, thánh nọ thánh kia. Trung thành với lệnh Giê-hô-va (Deuteronomy 18:20) "Phải giết đi kẻ tiên tri nào dám nhân danh ta nói điều gì ta không bảo nói", hai phe gây chiến với nhau hàng trăm năm giết hại biết bao sinh linh.
Trung-tâm dòng Tên ở Viễn-đông là Ma-cao thuộc Bồ-đào-nha. Tuy Bồ là một dân tộc rất bé sống ở một rẻo đất nhỏ miền Tây bán đảo Iberia, nhưng nhờ giỏi về nghề hàng hải, đầu thế kỷ 15 họ đã bắt đầu chiếm được nhiều đất trên thế giới để lập thành một đế quốc. Cuộc chiếm quần đảo Madeira năm 1419, quần đảo Azores năm 1427 ở Đại-tây-dương, xa ngoài Phi-châu, là những miền đất không người ở. Họ di dân đến đấy lập nghiệp. Họ lập pháo đài cùng trạm thương mại ở vịnh Guinea, Tây Phi-châu năm 1481. Các nhà hàng hải Bồ vượt mũi Hảo-vọng sang Ấn-độ-dương năm 1488.
Âu-châu thời bấy giờ theo chế độ phong kiến, vua chúa xứ nọ thường thông gia với vua chúa xứ kia. Sau khi vua chết, quyền kế vị nằm trong tay người cùng huyết thống, bất kể trai hay gái. Thuộc địa của vua qua đời có thể bị cắt thành nhiều mảnh để chia cho các con, vậy nên xảy ra nhiều trường hợp, một người vốn sống ở xứ mình có thể trở thành vua một xứ xa xăm cách trở. Bởi thế nhiều ông vua không nói được tiếng và cũng không biết tập quán của dân mà mình cai trị. Đó là trường hợp khiến cho vua Tây-ban-nha thành vua nước Bồ hay vua nước Hòa-lan. Columbus tìm thấy Tây-bán-cầu năm 1492; đất đai chiếm được phải thuộc về vua Tây-ban-nha là kẻ bỏ vốn ra bảo trợ cuộc thám hiểm nhưng vì quyền thừa hưởng theo huyết thống, Bồ được Tây-ban-nha ký nhường một vùng đất bao la ở Tây-bán-cầu gọi là xứ Ba-tây theo thỏa ước Tordesillas năm 1494.
Afonso de Albuquerque chiếm Goa ở bờ biển miền Tây bán đảo Ấn-độ năm 1510, rồi năm sau chiếm Malacca trên bán đảo Mã-lai. Năm 1557, Bồ thuê của nhà Minh đất Ma-cao ở tỉnh Quảng-đông bên Trung-quốc, lập thành thuộc địa. Bồ hiện đang duy trì thành-phố nhỏ nghèo nàn ấy làm một nơi cho du khách đến cờ bạc giải-trí, ít nhất cũng được đến năm 1999 là khi phải trả lại cho Trung quốc.
Rhodes không sang được Nhật
Rhodes học tiếng Nhật trước khi sang Viễn-đông, vì đã tính mạo hiểm đến đấy làm ăn nhưng dân Nhật quyết liệt diệt đạo Ca-tô nên dòng Tên đành đưa ông vào nước Việt-Nam vậy.
Vào thế kỷ 17, tàu buôn Tây-phương cứ ghé đất Nhật là được các lãnh chúa tiếp đón ân cần. Họ ham thích những hàng hóa vừa thiết yếu, vừa hấp dẫn, nhất là những khí giới vượt xa kỹ thuật sản xuất trong xứ. Các giáo-sĩ đi ké thuyền buôn được hậu đãi lây, không bị các lãnh chúa mảy may ngờ vực, còn được tướng-quân tặng đất ở Kinh-đô (Kyoto) để xây giáo-đường. Tướng-quân bên Nhật thời ấy y hệt chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, nắm quyền cai-trị toàn cõi, thiên-hoàng chỉ ngồi làm vì.
Nước Vatican cử một giáo sĩ dòng Tên (Jesuite) là Valignani sang Nhật để điều khiển cuộc xâm lăng nước này. Ông tới nơi năm 1579, khôn khéo phô trương bề ngoài hiền như bụt, không vụ lợi, cũng chẳng cướp bóc tranh giành. Ông được lòng những người quyền thế. Các vương hầu như Omura, Arima, Bungo ngả theo, hết lòng giúp đỡ nhóm ông mở chủng viện, trường học, nhà thương. Giáo-sĩ Tây-phương dạy thần học đạo Giê-su cho thanh niên Nhật. Mọi kẻ tân tòng, bất kể là vương-hầu hay thường dân đều bị giáo-sĩ dạy phải tuân lời giáo-hoàng mà chỉ vâng lời người này thôi, rồi họ quên luật pháp quốc gia, lòng yêu nước cũng phai mờ theo Tưởng rằng cơ hội đã tới, giáo sĩ bèn tự lột mặt nạ hiền lành, xúi tín đồ phá phách chùa chiền nếu không biến thành giáo đường để thờ Giê-hô-va.
Tướng-quân Hideyoshi tuần du đảo Cửu-châu năm 1587, ngỡ ngàng thấy tận mắt cảnh chùa tan hoang, tượng Phật bị đập bể. Khi khám phá ra vụ các lãnh chúa theo đạo Ca-tô trong vùng lén cử sứ thần sang Rô-ma để tỏ lòng trung thành với giáo-hoàng, một kẻ xa lạ ở tận Roma, ông giật mình lo ngại rồi lập tức ra lệnh triệt hạ các giáo đường, tu viện đạo Ca-tô ở Kyoto, Osaka và trục xuất hết giáo-sĩ ngoại quốc, bắt họ phải rời khỏi đất Nhật trong vòng hai mươi ngày.
Chiếc tàu San Felipe của Tây-ban-nha gặp bão dạt vào tỉnh Tosa năm 1596 bị Tướng-quân Hideyoshi cho các quan đến tịch thu. Viên thuyền-trưởng phô trương sức mạnh của nước mình cho các quan, hi vọng rằng đến tai tướng-quân, ông này sẽ sợ rồi hủy bỏ lệnh đi. Hắn vừa mở bản đồ ra khoe những đất đai Tây-ban-nha cai-trị ở khắp bốn phương trời, vừa giảng rằng xứ Nhật không tài nào làm thế nổi, là vì Tây-ban-nha có giáo-sĩ mà Nhật thì không. Giáo sĩ đi trước thuyết giảng cho dân các nước theo đạo Ca-tô, rồi lính đế quốc Tây-ban-nha dùng tín đồ đạo ấy làm nội ứng đã dễ dàng chiếm nhiều xứ khác.
Tướng quân Hideyoshi quả nhiên sợ nhưng ông đã phản ứng khác với ý muốn của viên thuyền trưởng dại dột. Năm 1597, các giáo sĩ dòng Phan-xi-cô, dòng Đa-minh bị chính phủ thiên-hoàng đặt ra ngoài vòng pháp luật. Tại Na-gasaki, 26 giáo sĩ bị hành hình. Đã hiểu thâm ý của Vatican, các tướng-quân về sau tiếp tục diệt đạo Ca-tô, có khi gắt gao hơn cả Hideyoshi. Tướng-quân Yeyasu cấm dân đi theo giáo-sĩ trốn ra nước ngoài.
Năm 1637, dân đạo Ca-tô ở đảo Amakusa và vùng lân cận là Shimbara ép Phật-tử đổi sang đạo họ, lại võ trang chống chính phủ. Các giáo-sĩ Tây-phương dòng Tên cầm đầu 30.000 quân dương cờ lâm trận; có cờ mang tên Giê-su, tên Ma-ri-a. Họ giết vị quan cai-trị Shimbara, chiếm thành trì làm nơi cố thủ. Quân chính phủ không phá được thành vì không có đại bác đủ mạnh, phải điều đình mượn thương thuyền có võ trang của Hòa-lan. Người Hòa-lan theo đạo Tin Lành, cũng thờ Giê-su nhưng không biết ý chúa cứu-thế này ra sao mà họ không chịu đội trời chung với Tây-ban-nha và Bồ-đào-nha. Đại bác Hòa-lan mạnh, thành bị phá, quân chính phủ Nhật tiêu diệt được quân đạo Ca-tô ở trong. Từ đó trở đi, đạo Ca-tô không ngóc đầu lên nổi ở Nhật. Một số người Nhật trốn ra khỏi nước đã làm nghề phụ-giáo-sĩ ở Hội-an để độ thân.
Đúng là kẻ cắp gặp bà già, Vatican là tay không vừa đụng phải dân Nhật-bản là những người quyết không dung các kẻ muốn cướp nước họ. Giáo-sĩ Ca-tô cứ tưởng áp dụng chiến-thuật dùng "vật hi-sinh" là có thể lung lạc nổi dân Nhật. Họ tin rằng nhờ cách ấy họ đã nuốt xong đế quốc La-mã to lớn thì thế nào mà chẳng nuốt trọng được nước Nhật nhỏ bé.
Ở đế-quốc La-mã, họ gây sự cho chính phủ bắt bớ, giết hại giáo sĩ. Quả nhiên các hoàng-đế đã làm như họ muốn. Các vị vua ấy tính rằng giết một người, vạn người sợ, nên mỗi khi hành hình một kẻ cuồng tín là rềnh rang quảng cáo với công chúng. Giám mục Cyprian ở tỉnh Phi-châu tức Algeria, Tunisia ngày nay, vừa nhiều tham vọng, vừa to miệng, lẩn trốn được tám năm rồi bị chính phủ bắt. Năm 258 ông đành chịu hưởng ân tử đạo. Khi ông bước ra pháp trường, các giáo sĩ làm việc dưới quyền ông được phép đi theo để tiễn đưa ông lên thiên đàng hưởng nhan Giê-hô-va. Họ bày một tấm vải ra để hứng máu ông khi đầu ông rơi xuống, đem về làm thánh tích (Gibbons, trang 219). Hoàng đế Diocletian (284-305) và những người kế vị đã đàn áp đạo Ca-tô trong mười năm. Sử-gia Gibbons kể rằng trong thời gian ấy, riêng tại vùng Palestine 92 người được danh dự chết cho Giê-hô-va rồi ông tính rằng cũng trong thời gian ấy, trên toàn đế quốc độ hai ngàn người (Gibbons, trang 233) được hưởng ân sủng đó. Nói chung trong mỗi thành thị ở đế quốc rộng bao la như vậy, thường là lâu lâu mới có một người bị lên án tử hình. Sự trừng trị đã chẳng làm kẻ mê muội tỉnh ra, lại còn thành dịp cho các giáo-sĩ khích động lòng cuồng tín. Thế là đế-quốc La-mã xụp đổ, Âu-châu bị xé thành nhiều xứ phong kiến do các lãnh chúa Ca-tô cầm đầu dưới quyền giáo-hoàng.
Nhật-bản không đối đáp với giáo-hội Ca-tô theo cách thức của đế-quốc La-mã. Họ đã tình cờ lấy gậy ông đập lưng ông, họ đã dùng chiến-thuật "làm cỏ" đạo khác của Vatican để chống lại đám người Ca-tô cuồng tín. Thế-kỷ 13, dân vùng Toulouse, miền Nam nước Pháp ngày nay, nhận thấy Giê-hô-va ác quá, đúng là quỉ Satan mạo nhận làm thiên-chúa. Họ lập giáo-phái Cathari chỉ kính thờ Giê-su thôi. Năm 1209, Giáo-hoàng Innocent III ra lệnh thánh chiến để diệt họ, quân phe giáo-hoàng bao vây thành Bézier rồi ngày 22 tháng bảy xông vào trong giết hết dân kể cả đàn bà, trẻ thơ. Người Nhật không biết dùng một gậy nữa của đạo Ca-tô. Vatican làm cỏ dân sống chưa đủ, họ không tha người đã chết. Năm 1329, tòa án đạo của họ ở Carcassonne cho đào mả bảy người họ kết tội tà đạo, móc xác lên đốt đi (Trần Quí, trang 133).
Rhodes viết sách
Rhodes để lại một số tác phẩm. Ông soạn một cuốn tự điển chữ quốc ngữ đối chiếu với tiếng Bồ-đào-nhà và tiếng La-tinh tựa là Dictionnarium Annamiticum Lusitanum et Latin- um. Vài giáo sĩ Bồ đã dùng mẫu tự La-mã phiên âm tiếng Việt từ trước, Rhodes bồi bổ thêm.
Năm 1645 Rhodes viết một bản Tường-trình Về Đàng Trong nói về những hoạt-động, những thủ đoạn tuyên-truyền đạo Giê-su của giáo sĩ ở Đàng Trong. Những đoạn như sau trong sách cho thấy dù chiến thuật dùng vật hi-sinh thất bại ở Nhật, họ vẫn kiên nhẫn áp dụng ở đất Việt:
"Thày giảng Inhaxu cần mẫn thực hành chức vụ trong miền Bắc đã trao phó cho thày. Thày bắt đầu làm nhiệm vụ trong phủ, nơi không thiếu việc để thỏa mãn lòng nhiệt thành. Có nhiều người xin theo đạo, những người này từ một năm nay đã giữ các ngày Chủ nhật và ngày lễ như thể đã là các Kitô hữu. Có một vụ bắt bớ đã xảy ra trong tỉnh này, làm mồi nhóm lòng nhiệt thành rất lạ lùng" (trang 13-14).
"Thù địch ơn cứu rỗi của ta không thể chịu mất nhiều đồ đệ, thế là khi tôi rút lui thì nổi lên một vụ bắt bớ dữ dằn chống lại các người tân tòng, nhất là ở làng Kẻ Đại nơi có nhiều Kitô hữu hơn. Có một sắc lệnh được ban hành, bắt mọi người phải bỏ đạo, nếu không thì sẽ bị tịch thu hết của cải và bị án lưu đồ" (trang 14).
Bốn thủ đoạn chính đế quốc giáo quyền dùng để thôn tính các xã hội là gây lòng cuồng tín, cộng tác với đế quốc thế quyền, tàn sát những kẻ khác tín ngưỡng, đòi tự do tôn giáo. Vào cuối thế kỷ 20, nhiều lực lượng chính trị lớn mạnh trên thế giới không nề hà dùng tín ngưỡng làm khí giới để hạ địch thủ nên quyền tự do tôn giáo được yểm trợ mạnh mẽ. Những kẻ đòi quyền ấy nhiều nhất cũng là các giáo sĩ thờ thần dâm ác nào ta đã biết. Họ đòi quyền ấy để đi diệt các tôn giáo khác vì lệnh của thần đó là: Phải dứt khoát giết đi người thờ thần nào ngoài Giê-hô-va ra (Exodus 22:20). Lệnh này khiến họ cảm thấy là làm một sứ mệnh thiêng liêng khi nhúng bàn tay vào máu để diệt kẻ không cùng đạo. Vụ người đạo Giê-su tàn sát những người Hồi phái nam từ mười sáu tuổi trở lên ở Bosnia năm 1995 chứng minh rằng họ trở thành khát máu như không (Trần Quí, trang 136). Lời Rhodes khoe khoang ở trên còn biểu lộ một thủ đoạn nữa giáo sĩ thường dùng, họ gọi là "ơn cứu rỗi".
Khi giáo sĩ dùng mê tín để xâm lăng nước nào, họ bảo là họ mang "ơn cứu rỗi" đến cho nước ấy. Họ tuyên truyền là họ có một sứ mệnh rất cao cả nên nhất định liều thân đến làm ơn tuy không được mời, tuy bị đuổi đi.
Những người Việt sống trong thời Pháp-thuộc được đồng thời hưởng hai ơn của Tây-phương, "ơn cứu rỗi" của đế quốc giáo quyền, "ơn khai hóa" của đế quốc thế quyền. Chính phủ thuộc địa quảng cáo rằng người Pháp đại lượng hi sinh, đành bỏ cuộc sống sung sướng ở bên nước họ, lặn lội đi khai hóa dân lạc hậu. Quân Pháp thua trận, rút đi, chịu thôi hiến "ơn khai hóa" cho dân Việt. Giáo-sĩ Pháp hết được khí giới của thực dân bảo vệ cũng cút theo, chịu ngừng sứ mệnh đi dâng "ơn cứu rỗi".
Người Pháp xét lại lịch sử đã phải công nhận rằng mục đích của đế quốc, của thực dân chỉ là bóc lột dân bị trị, đạo đức bề ngoài chẳng qua là thủ đoạn mà thôi.
"Ơn khai hóa", bạn lòng của "ơn cứu rỗi", đã chết, nữ ma-vương "ơn cứu rỗi" đang cần tìm một hay nhiều tình nhân mới đủ sức mạnh che chở nàng, biết xoay xở nuôi sống nàng, để gậm nhấm, nếu không nuốt trọng nổi, những cá nhân, những xã hội, những quốc gia vô tình không biết bản chất nàng.
Rhodes viết: "Phải ghi nhận ở đây lòng quảng đại của một thanh niên là Âutinh, anh mới là Kitô hữu được ba bốn tháng, về thân xác thì đau yếu gần như bệnh tật. Anh bị bắt và tức khắc bị gò cánh khỉ rất đau đớn, để ở ngã ba đường phố không sao cựa mình được, thế nhưng anh vẫn không ngưng tươi nét mặt, mọi người đều khen lòng can đảm bất khuất của anh, anh đã toàn thắng tất cả những sự dã man người ta bắt anh chịu. Lương dân lại càng thêm đe dọa các Kitô hữu, nạt nộ họ, người thì đem chôn sống, kẻ thì dọa bắt đóng đinh trên cây Thánh giá mà các Kitô hữu đã thành tâm cho dựng trong xóm, nhưng tất cả các đe dọa không làm cho họ bỏ điều họ cho là của cải lớn nhất của họ" (trang 14).
Một người ông gọi là André tự nộp mình cho chánh phủ Đàng Trong,"lớn tiếng nói mình sẵn sàng chịu mọi hình khổ vì đạo".
"Thiên chúa muốn thưởng cho thày danh dự tử đạo". Quan tòa nói: "nếu y xưng là y nghèo khó và y đến phục dịch ông cha (giáo sĩ) để có của nuôi thân, thì tôi đã tha cho y, nhưng y bất khuất và táo bạo xưng mình là Kitô hữu và sẵn sàng chết vì đạo, y không sợ cực hình; như thế y tỏ ra ngoan cố và điên dại, y chết là phải. Đó là lời lẽ quan tòa ngoại đạo gọi sự khôn ngoan của Đức Thánh Linh là điên cuồng" (trang 32).
André bị hành hình. Rhodes kể rằng bọn giáo-sĩ Tây-phương ở Ma-cao hết sức mừng rỡ khi đón xác một người Việt thiệt mạng vì trúng mẹo ẩy bụi rậm của họ: "Ngay khi Gaspar d’Amaral, viện trưởng học viện Macao, cũng là phó giám tỉnh Nhật bản được tin về phẩm vật cao quí tôi gửi từ xứ Đàng Trong tới thì cha vô cùng hớn hở, chính cha cũng đã lâu năm được phái tới giảng Phúc âm trong nước này. Thế là quyết định đưa tin vui về thi hài thánh cho cả học viện và thành phố biết" (trang 37). Rhodes nói nữa về nỗi hân hoan của bọn giáo sĩ ấy, đoạn trên chỉ là một phần thôi.
Rhodes viết một cuốn sách bằng chữ quốc ngữ Việt-nam đối chiếu với tiếng La-tinh, tựa là "Phép giảng tám ngày cho kể muấn chịu phép rứa tọi, ma beꦣ224;o đạo thánh đức Chúa blời [cho kẻ muốn chịu phép rửa tội mà vào đạo thánh đức Chúa trời], Tủ Sách Đại Kết, Sài-gòn, in lại năm 1993, gọi tắt là Phép Giảng Tám Ngày.
Ngày thứ nhất Rhodes giảng về linh hồn và chúa trời đạo Giê-su. Ông nói khơi khơi chúa trời khiến ta tưởng dân vùng Địa-trung-hải thời đó chỉ thờ có một thiên-chúa thôi. Thực ra họ thời Giê-su như dân Việt thời nay, sùng bái nhiều đạo, nhiều thần. Mỗi đạo của họ thờ một thiên chúa riêng, hoặc nam hoặc nữ, như nữ thiên chúa Cybèle, nam thiên chúa Zeus, Mithra.
Ngày thứ hai đả kích quan niệm về Ngọc-hoàng của đạo Lão, nói nữa về chúa trời, nói về các thiên thần, về ân sủng.
Ngày thứ ba nói về quyền năng chúa trời, tạo thiên lập địa dựa theo Cựu-ước, cũng nói về "thằng ngụy Lucifer", về A-đam và E-và. Phải có mặt trời, trái đất phải xoay quanh mặt trời mới có ngày đêm, vậy mà Rhodes kể Thiên chúa Giê-hô-va làm việc khác trong ba ngày rồi ngày thứ tư mới tạo ra mặt trời, Giê-hô-va dốt ơi là dốt về kiến thức phổ thông nên để lòi cái đuôi giả mạo nhận tạo ra vũ trụ như vậy. Cây cối ra đời ngày thứ ba, trước cả mặt trời nữa chớ! Thật hết đường nói!
Cái lưỡi không xương mới quảng cáo rằng chúa trời của đạo Giê-su lòng lành vô cùng trong bài giảng ngày thứ hai thì sang ngày thứ ba lại kể rằng chúa ấy sai thiên thần đánh "thằng" (quân) Assirio, một đêm đánh chết một vạn tám muôn năm nghìn (trang 62). Con số cũng vô nghĩa, có lẽ người Việt nào đó gà tiếng Việt cho Rhodes quên không kiểm soát; vạn là muôn, một vạn tám muôn nghĩa là làm sao?
Ngày thứ bốn nói nữa về Cựu-ước, đả kích tam giáo, mạt sát Phật Thích-ca, tuyên truyền nữa về chúa trời đạo Giê-su.
Ngày thứ năm nói về bà Maria là gái rất ngoan, có chồng nhưng không ngủ với chồng vẫn chửa đẻ ra Giê-su. Thomas Paine dí dỏm bài bác nỗi mê tín. Ông bảo rằng ví dụ bây giờ có cô gái không chồng mà chửa đổ cho thần linh ngủ với mình, chắc chắn không ai thèm tin, thế mà biết bao kẻ đi tin truyện y như thế được bịa ra cả ngàn năm xưa (Trần Quí, trang 343).
Ngày thứ sáu kể sự tích Giê-su, Rhodes thuật rằng ông lễ phép nói với mẹ: "Lạy đức Mẹ, mà sao đức Mẹ có tìm Con làm vậy?" (Rhodes, trang 175).
Ngày thứ bảy kể tiếp sự tích Giê-su.
Ngày thứ tám tuyên truyền về đạo Giê-su, đả kích đạo Phật, nói về các lệnh của chúa trời đạo Giê-su, về ba ngôi thiên-chúa đạo ấy.
Thiên chúa Giê-hô-va cũng như Giê-su thường nói mày tao, thằng này, thằng nọ trong sách Phép Giảng Tám Ngày, phản ảnh đúng tư cách những vai ấy trong Thánh Kinh đạo Ki-tô. Giê-hô-va tự nhận tên mình là Ganh-ghét (Exodus 34:14), lại có lúc dọa "trát cứt" lên mặt người ta (Malachi 2:3). Trong các tôn giáo trên thế-gian chưa từng có thần nào dâm ác hơn, tục tĩu hơn.
Tân-ước kể Giê-su hỗn hào mắng mẹ như sau: "Này người đàn bà kia, ta với ngươi có liên hệ gì đây?" (John 2:4). Trong suốt sách ấy, Giê-su chỉ gọi Maria bằng "người đàn bà kia", chớ có bao giờ gọi bằng mẹ đâu! Biết phong tục Việt-nam lấy chữ hiếu làm đầu, Rhodes đã đặt vào mồm người thợ mộc ấy những lời người ấy không biết dùng: "Lạy Đức Mẹ, mà sao đức Mẹ có tìm Con làm vậy?" Giê-su là dân Do-thái, một phụ nữ không phải dân Do-thái đến nhờ chữa bệnh cho con, Giê-su ruồng rãy: "Cho chó ăn còn hơn cho người ngoài đạo Do-thái ăn"(Mark 7:27). Thật là đã chẳng có tí lòng thương nào đối với người mẹ đang lo lắng lại nói vừa hỗn vừa liều. Gọi người ta thế nào, người ta gọi mình làm vậy thì tính sao đây?
Rhodes đã đánh bóng tư cách Giê-su lại gian dối dịch sai lời Thánh-kinh, vậy tại sao Giê-hô-va, Giê-su mày tao lắm vậy trong sách ông? Có lẽ Rhodes đã tránh né giới sĩ phu hoặc họ đã cố xa lánh kẻ bịp bợm nên Rhodes chỉ được học tiếng Việt với những người thấp kém, rồi đã vô tình để Giê-hô-va cùng Giê-su nói năng hạ cấp.
Phần 3
Pháp hướng về Viễn-đông
Chuẩn bị lên đường
Rhodes bị đẩy sang Ba-tư, ba người ông nhắm nhấc lên thành giám mục Đông-phương lủi thủi quay về nơi ở cũ. Năm 1655, sau khi giáo-hoàng Innocent X chết, giáo hoàng Alexandre VII lên thay, hội Tuyên-truyền lại ngỏ ý muốn đem vấn đề Viễn-đông ra xét. Người Pháp tức thời vồn vã đáp ứng. Vincent de Paul báo tin rằng nhiều người ở Paris sẵn sàng bỏ tiền ra giúp chương-trình bành trướng đạo Ca-tô sang vùng Tây Thái-bình-dương. Hội-đồng Giáo-phẩm Pháp nhượng bộ, bằng lòng đặt tiền quĩ dưới quyền quản lý của tòa thánh. Hội Tuyên-truyền chùn bước, lờ đi lần nữa.
Người Pháp quyết nắm chặt món quà Viễn-đông Rhodes đã dâng. Giữa năm 1657, Francois Pallu cùng một nhóm người Pháp sang Roma vận động. Họ cả quyết với giáo hoàng rằng họ chẳng những đặt tiền quĩ dưới quyền trực tiếp của ông, còn chẳng để tòa thánh mất xu teng nào. Cuối năm ấy, một cha đạo là Pierre Lambert de la Motte, người miền Normandie, sang Roma nhập vào nhóm Pallu. Ông ta giàu có, tự nguyện đem của riêng ra ứng trước để nuôi các giám-mục tương lai bên đất chúa Trịnh, chúa Nguyễn. Thế là một ủy-ban gồm bốn hồng-y quyết định tuyển ba giám mục để gửi đi hoạt động dưới quyền điều động của hội Tuyên-truyền.
Dự định của Vatican mới đầu bằng con ễnh ương đã phồng bằng con bò, họ cử giám mục cai quản chẳng những đất Việt-nam mà cả cõi Viễn-đông bao la. Tháng 9-1658, họ đã ngông-nghênh nâng Pallu thành giám mục Heliopolis, cai quản Đàng Ngoài, Lào, các tỉnh Quảng-tây, Quí-châu, Vân-nam, Tứ-xuyên; cử Lambert làm giám mục Béryte, cai quản Đàng Trong, đảo Hải-nam, các tỉnh Quảng-đông, Phúc-kiến, Giang-tây, Triết-giang. Tháng 9-1660 họ nhấc Ignace Cotolendi, một cha đạo ở Aix-en-Provence, lên chức giám mục Metellopolis, cai quản Nam-kinh, Bắc-kinh, Sơn-đông, Sơn-tây, Thiểm-tây, cả các nước Triều-tiên, Mông-cổ nữa.
Bồ-đào-nha ấm ức vì thế là Pháp đã giẵm lên vùng đất họ đang thao túng. Dòng Tên ngả về phe Bồ. Đức thánh cha rất hiểu bụng dân Ca-tô đối với nhau, đã cảnh cáo Pallu chớ ăn cánh với dòng Tên nếu không muốn hỏng việc (Chap- poulie, tome I, trang 120). Các giám mục được lệnh rằng trên đường sang Viễn-đông phải hết sức bí mật, mai danh, ẩn tích, chớ để phe Bồ biết gì hết; không được đi qua đất người Ca-tô cầm quyền; phải đi đường bộ qua đất đạo nào tương đối dễ chịu hơn, nghĩa là qua đất Hồi-giáo, tức vùng Lưỡng-hà, xứ Ba-tư, ở Ấn-độ thì qua xứ Mogol; nếu đi đường biển, phải tìm tàu nào chạy thẳng một mạch tới nơi, chớ có ghé đâu.
Tháng 9 năm 1660 giám mục Lambert cùng hai cha đạo Jacques de Bourges, Francois Dey- dier xuống tàu ở Marseille đi Syrie để theo đường bộ sang Đông-phương.
Pallu từ Roma trở về Pháp làm những việc ông chưa hề hé miệng nói cho hội Tuyên-truyền biết. Ông cần tính việc với hội, tên đúng là công-ti (compagnie), Saint Sacrement trước khi đi Viễn-đông. Hai bên ý hợp tâm đầu, ông định lập một đoàn thể đi ngoại quốc tuyên truyền thì hội cũng đang lo lập. Hội cử bốn cha đạo cùng mười hai thường dân trông coi công việc tổ chức. Một dịp may đến đương khi họ cần tìm trụ sở. Giám mục Jean Duval có mấy tòa nhà ở đường Bac, Paris, định dùng làm nơi sinh hoạt cho những người sang Ba-tư tuyên truyền, việc không thành nên nhà để trống. Hai bên mặc cả, Duval thấy được lợi bèn giao nhà cho họ.
Tháng bảy, năm 1663, vua Louis XIV chuẩn y sự hình thành hội đó với tên là "đoàn thể đi đổi đạo cho những người chưa theo ở ngoại quốc" (séminaire pour la conversion des infidèles dans les pays étrangers). Các Bạn Tốt cầm đầu hội. Tháng 6 năm 1664, họ bầu một người trong nhóm họ, Vincent de Meur, kẻ có công môi giới cho Pallu gặp giáo hoàng, làm chủ tịch. Nhiều giáo sĩ trong nhóm nhận làm đại diện (procureur) để bênh vực quyền lợi cho đoàn khi cần thiết. Sau này đoàn trở thành Missions Étrangères de Paris (Hội Paris Truyền-giáo Quốc-ngoại), công cụ lợi hại nhất của thực dân Pháp tại Việt-nam.
Công-ti Saint Sacrement muốn buôn bán trong khi tuyên truyền đạo nên tính lập một công ti thương mại. Họ mong giáo sĩ, thương nhân cùng vượt trùng dương bằng tàu Pháp, dựa lẫn vào nhau trên đường làm ăn. Thương thuyền thì họ nhờ Fermanel de Favery, một nhà hàng hải, lo liệu. Ông này đang có một con làm linh mục đại diện cho Lambert. Ông sang Hoà-lan sắm sửa một chiếc tàu, tên đặt là Saint Louis, cho công-ti. Năm 1664, ông trở nên một trong những cột trụ của thượng thư Colbert trong cuộc thành lập công-ti Đông Ấn-độ (compagnie des Indes Orien- tales) của Pháp.
Không có Rhodes chỉ lối, ắt Công-ti Saint Sa- crement của giáo-hội Ca-tô mù tịt chẳng biết đường sang Viễn-đông làm ăn, không dựng nên Hội Paris Truyền-giáo Quốc-ngoại, Công-ti Đông Ấn-độ được thành lập ngay sau đó cũng thiếu kẻ dẫn lối. Con người thích phiêu-lưu, mạo hiểm và bất hạnh ấy đã chỉ đường cho giáo-hội Ca-tô và nước Pháp đi sang miền Tây Thái-bình-dương khuân về những món lợi lớn lao. Giáo-hội Ca-tô không nhớ ơn, Pháp không thổi phồng Rhodes sao được!
Giám-mục Pallu mộng làm ăn lớn. Ông tính cộng tác với Công-ti Đông-phương và Madaga- scar của Pháp để đóng hoặc mua một tàu to, một thuyền to, một thuyền nhỏ, tuyển mộ một hoa tiêu, 50 sĩ quan, 55 thủy thủ và 2 bác sĩ giải phẫu; tàu chuyển hàng từ Âu-châu tới tận Đàng Ngoài. Về tiền nong, ông tính các giám mục hùn vốn một nửa, nửa kia công ti chịu. Ông tính đòi được quyền mang theo 20 người riêng của mình (Chappoulie, tome I, trang 125).
Tiếng đồn về các hoạt động của Pallu làm hội Tuyên-truyền ở Roma giật mình. Sự chào đời của tàu Saint Louis làm người Hòa-lan sợ Pháp cướp mất chỗ buôn bán mặc dù tháng chạp năm 1660, tàu ấy bị bão phá tan. Nghe thấy Pallu không tàu Pháp để đi theo dự định, tính dựa vào phương tiện của Tây-ban-nha đạo Ca-tô, Lesley bên hội Tuyên-truyền ở Roma vội can gián, khuyên nên đi tàu Anh đạo Tin Lành an toàn hơn. Tháng giêng năm 1662, Pallu cùng hai cha đạo Louis Laneau, Pierre Brindeau và mấy người nữa xuống tàu ở Marseille. Khi ấy bọn Lambert đang ở giữa đường đi Xiêm.
Lambert ở Xiêm
Bọn Lambert tới Syrie, đi đường bộ qua vùng Lưỡng-hà đến Ba-tư. Tháng 10 năm 1661 tới hải-cảng Gomeron trên xứ ấy, bên bờ eo biển Ormuz, họ thấy người Anh, người Hòa-lan đã chiếm hết cơ-sở của Bồ-đào-nha, một nước đang lâm cảnh suy vi. Gặp lúc Anh đang hòa-thuận với Pháp, người Anh giúp họ xuống tàu Hồi đi nước Mogol. Lên bến Surate, xa về phía Bắc Bombay, họ nghe nói hải cảng Gao của Bồ, rất xa về phía Nam, đang tàn tạ nên tiếng đồn rằng nhà cầm quyền Gao được lệnh tìm bắt họ không làm họ ngại ngùng. Họ ngồi trên ba xe bò, đi bốn mươi mốt ngày, băng ngang bán đảo Ấn-độ sang hải cảng Masulipatam, nước Golcon -de, bên bờ biển Coromandel trông ra vịnh Ben- gale. Họ lại nghe thấy Bồ bất hòa với nước Golconde nên cơ sở Bồ ở Meliapour xa về phía Nam Madras chắc cũng chẳng bao lâu nữa bị nước ấy chiếm mất. Họ đáp tàu Hồi tới Tenas- serim ở miền Tây bán đảo Mã-lai, nằm trong địa phận nước Xiêm. Gặp Jean Cardoso, một cha đạo người Bồ dòng Tên, Lambert khoe khoang địa-vị giám mục, quên khuấy lời dặn dò của hội Tuyên-truyền ở Roma.
Bọn Lambert đặt chân lên Tenasserim khi nước Xiêm, tức Thái-lan, đang thanh bình thịnh vượng, vua Xiêm đang dễ dãi với đạo Giê-su. Họ ngồi thuyền, đi bộ rồi lại ngồi thuyền, tháng 8 năm 1662 tới kinh đô Xiêm là Ayouthia. Thành thị này cũng nằm trên bờ sông Menam Chao Phraya như Bangkok ngày nay nhưng nhích lên phía Bắc mấy chục cây số. Thuyền bè từ Âu-châu, Ấn-độ, Phi-luật-tân, Nhật-bản ghé tới. Anh, Hòa-lan, Bồ-đào-nha đều có cửa hàng buôn bán. Chùa năm trăm ngôi, ngôi nào ngôi nấy nhiều tượng nạm vàng.
Năm 1622, vua Phra-chao Song-tham chiều các thương-gia Bồ đang làm ăn trong nước đã dục dã giám-mục Gonvalve da Silva ở Malacca gửi cha đạo sang sống với họ. Hai năm sau, Jules Cé- sar Margico được phái đến. Ông khéo léo, vừa ý vua, được lòng các đại thần, nhưng chẳng bao lâu ông bị một người Ca-tô đầu độc đưa về chầu thiên chúa Giê-hô-va. Mãi năm 1655 mới có một giáo-sĩ dòng Tên khác, người đảo Sicile, từ Macao tới. Việc chính ông Thomas Valguarnera này nhằm vào là sinh hoạt với nhóm người Ca-tô đã trốn khỏi Đàng Trong, Nhật-bản để tránh đàn áp.
Hầu hết dân Xiêm theo một đạo duy nhất là Phật-giáo, khác dân Việt, dân Nhật. Một cá nhân thuộc các dân tộc này có thể đồng thời theo nhiều đạo, thờ nhiều thần mà chẳng gặp trở ngại gì, vì thế họ đón nhận thần Giê-hô-va không mảy may nghĩ tới cái nguy hại về sau. Họ không ngờ rằng thần dâm ác ấy đã ra lệnh: "Phải dứt khoát giết đi người lễ thần nào khác ngoài Giê-hô-va ra" (Exodus 22:20) và những kẻ thờ Giê-hô-va đã thực hiện lời đó dọc theo lịch sử nhân loại. Dân Xiêm nghe giáo sĩ tuyên truyền cứ như không, vẫn một lòng tuân lời Phật. Trước Lambert gần một thế kỷ, các giáo sĩ dòng Đa-minh đã bỏ công Dã-tràng ra dụ họ. Nhưng Lambert vẫn hi-vọng.
Dưới triều vua Narai, quan đại thần Constance Phaulcon nước Xiêm theo đạo Tin Lành là người Lambert cần giao thiệp nhất. Phaulcon nguyên tên là Gerachi, người vùng Vénétie, sinh trong một gia đình thế tộc ở Custodia, đảo Céphalonie, có người nói ông gốc Hi-lạp. Làm cho công-ti Ấn-độ của Anh, ông trôi dạt tới Xiêm, được tể-tướng rồi được cả vua tin dùng. Khi tể tướng qua đời, Phaulcon trẻ măng, được vua cử cầm quyền thay nhưng ông chẳng bao giờ chính thức tuyên bố giữ chức ấy.
Bọn Lambert đang hòa điệu êm ái với dân Tây-phương ở Xiêm thì người Bồ tại đó trở mặt. Người Bồ được lệnh phó vương Goa là phải bắt đám giáo sĩ Pháp vì tội hành nghề cha đạo lậu. Đang bối rối lo sợ, Lambert được dân Đàng Trong đến cứu đem về cùng ở trong xóm cạnh sông. Hoàn cảnh đưa đẩy, ông tĩnh tọa, lại kiêng ăn thịt. Ông hỏi han đám dân Đàng Trong, thấy mang tiếng đã rửa tội mà ai cũng dốt nát, chẳng hiểu gì về tín lý. Thì ra ai muốn rửa tội là giáo sĩ rửa liền hôm đó hay hôm sau cho có số đông chớ chẳng huấn luyện gì. Lambert có lý do để quật lại phe Bồ. Tháng bảy năm 1663, ông viết thư mách giáo hoàng nhiều điều bê-bối của giáo-sĩ Bồ, rồi mấy ngày sau, ông cùng Deydier xuống thuyền sang Trung-quốc. Thuyền bị bão phá hỏng, dạt vào đất Cao-miên, cả bọn đành lội bộ quay lại Xiêm.
Ignace Cotolendi khởi hành bên Pháp năm 1661 với Louis Chevreuil và Antoine Hainques, ông ngả bệnh rồi tháng 8 năm 1662 qua đời tại Masulipatam. Hai người còn lại gặp nhóm Pallu, nhập chung với nhau. Họ cùng tới kinh đô Xiêm tháng giêng năm 1664. Người Xiêm không chịu đổi đạo, bọn Lambert chẳng có việc mà làm, bây giờ có thêm nhóm Pallu nữa. Đương lúc Đàng Trong, Đàng Ngoài đều đang cấm gắt đạo Giê-su, họ muốn đưa giáo sĩ sang Việt-nam cũng không được. Tính đi tính lại, thấy đất Xiêm yên ổn, tự do, là nơi nên xây dựng trụ sở chính để từ đó đến các nước lân cận làm ăn, Pallu quyết định trở về Âu-châu để xin chuẩn y các dự tính của mình, nhân thể cũng muốn đòi thêm quyền hành. Tháng giêng năm 1665 ông xuống tàu.
Phạm vi Lambert được cử làm giám mục không có đất Xiêm, đang thèm nắm quyền ở đấy ông mừng thấy cơ hội đã đến. Xiêm thuộc địa phận giám mục Malacca. Khi bị Hòa-lan chiếm, Malacca thiếu giám mục, chỉ có người quyền giám-mục (gouverneur) là cha đạo già yếu Paul d’Acosta, ông này chạy trốn sang Cao-miên ẩn náu với mấy gia đình Bồ. Lambert cho Louis Chevreuil đến bẻ ông về tội bỏ bê phận sự và ngỏ ý rằng Lambert sẵn sàng gánh vác. Ông sợ hãi nhường quyền.
Tháng 5 năm 1666, Lambert đòi cấm hành nghề một giáo sĩ Bồ đại diện tòa án đạo Goa là Fragoso, dòng Đa-minh. Fragoso đòi ông trình giấy tờ để chứng minh thẩm quyền, ông đưa thư của Acosta ra, Fragoso cho là vô giá trị, trục xuất ông khỏi đạo, lại viết thư báo cho các tín đồ ở Xiêm biết và cấm họ giao dịch với ông, người giáo sĩ Bồ còn cho niêm yết thư ở nhà thờ dòng Đa-minh, dòng Tên tại khu vực dân Bồ sinh sống. Dẫu vậy, ông sống trong xóm dân Đàng Trong, được họ che chở, chẳng sợ Fragoso tí nào.
Lambert viết thư về Paris vạch tội giáo sĩ dòng Tên, lời lẽ phũ phàng nhưng nội dung vẫn là đã hốt của làm giầu lại sống buông tuồng, không có gì mới hơn những thư ông đã viết từ năm 1663.
Tiền cấp cho không đủ sống, các giáo sĩ ở Viễn đông cần kiếm thêm. Họ không cày cấy, chỉ nhằm vào buôn bán. Giáo-sĩ dòng Tên phụ trách địa-phận Nhật hàng năm mua lụa ở Macao, nhờ thương gia Bồ đem sang Nhật bán, lời lãi chia nhau. Vì Alexandre Valignano, trưởng dòng Tên, vận động, chính phủ Macao ban cho bọn ấy đặc ân là hàng năm được hưởng lời lãi của 50 tạ lụa bán ra đầu tiên. Valignano dò ý giáo-hoàng Gré- goire XIII, ông này cho Aquaviva trả lời là ông chấp thuận, lại nói thẳng rằng đó là nhu cầu cần thiết. Năm 1611, Philip III, vua kiêm hai nước Tây-ban-nha, Bồ-đào-nha, cấp môn bài chấp-thuận đặc quyền kể trên. Tháng chín năm 1666, chính phủ Macao công bố rằng buôn bán là nhu cầu cần thiết của giáo sĩ dòng Tên địa phận Nhật, tòa thánh và vua đều cho phép. Đế quốc thế quyền cấu kết với đế quốc giáo quyền chặt chẽ như vậy.
Lambert vạch ra rằng chẳng tàu nào nhổ neo ở Macao đi Xiêm, Cao-miên hay nhiều miền khác không có những khối hàng lớn của dòng Tên. Tháng 10 năm 1667, ông cho dán lên cửa nhà thờ xóm Đàng Trong ở kinh-đô Xiêm một thư tố cáo bằng tiếng La-tinh kèm với bản dịch thành tiếng Bồ. Ông phàn nàn là giáo sĩ dòng Tên lầm-lỗi, không biết liêm sỉ. Phe Bồ phản công. Valguarnera tố cáo với Vatican rằng ông phạm nhiều lỗi, một lỗi là làm lễ khi chưa được Acosta ủy quyền. Ông bẻ lại rằng dòng Tên đã cho phép con chiên cúng giỗ, còn đút lót vua chúa để được sủng ái. Ông bèn bị bẻ là buôn vàng và gửi một thuyền đầy hoa quả sang bán bên Quảng-đông.
Dòng Tên ở Xiêm vận động các giáo sĩ đòi Lambert xuất trình giấy tờ. Tháng 8 năm 1669, họ ra lệnh bắt ông trình nội trong ba ngày, nếu không sẽ bị trục xuất khỏi giáo hội, lại bị phạt hai trăm đồng bạc kim loại. Ông nhượng bộ, trình sắc lệnh giáo hoàng cùng các giấy tờ khác. Phe Bồ công nhận giấy tờ của ông là thật cả, nhưng ông đã đi lén vua Bồ nên họ vẫn coi ông là kẻ hành nghề cha đạo bất hợp pháp.
Một người Bồ quyền quí mới đến Xiêm muốn hạch tội Lambert bèn cùng một đoàn hộ tống đi thuyền treo cờ Bồ tới đòi ông trình giấy phép của vua Bồ. Sợ mấy người Pháp lâm nguy, độ trên chục người Đàng Trong vội vàng cầm gươm dao chạy đến. Người Bồ thấy họ hung hăng bèn rút lui. Sáng sau, dân Đàng Trong võ trang ngồi trên hai chiến thuyền vua Xiêm ban cho từ trước, diễu đi diễu lại qua xóm Bồ, chẳng ai dám phản ứng gì.
Vua Narai gửi mười thần dân đến học khoa học với các giáo sĩ Pháp, cho phép những người này tự do đi tuyên truyền, lại tặng đất cho họ xây nhà thờ. Bọn giáo sĩ không biết điều, hí hửng lên chân quá trớn. Một ông hoàng bị bệnh, tay chân liệt đã trên mười năm, chẳng thuốc men gì chữa khỏi, họ nhận chữa bằng phép lạ. Họ cầu nguyện rồi họ nói bệnh đã bớt nhưng nếu muốn bệnh khỏi hẳn, ông hoàng phải theo đạo Ca-tô. Vua Narai thông minh nhận ra sự thật, vẫn nhã nhặn ban cho bọn họ nhiều đặc ân nhưng tuyệt đối không để họ nói chuyện đạo Ca-tô trong chốn triều đình nữa. Lambert mở trường đào tạo giáo sĩ. Năm 1668, ông phong cho một người Đàng Trong làm cha đạo lấy tên là Joseph.
Bourges đi Âu-châu vận-động
Lambert tới kinh đô Xiêm tháng tám 1662, ông sớm thấy cần phải có quyền để kiềm chế giáo-sĩ phe Bồ. Ông nóng lòng muốn nắm ưu-thế nên chăm gửi thư về Vatican, tháng mười gửi một chuyến theo đường thủy, tháng chạp một chuyến theo đường bộ, rồi tháng ba năm sau một chuyến theo cả hai đường. Nghi ngờ vẩn vơ rằng thư có thể bị phe Bồ nẫng mất, ông quyết định gửi người về Âu-châu liên lạc.
Người ra đi là Jacques de Bourges, trước thuộc nhóm Bạn Tốt, ông xuống Tàu rời Xiêm tháng mười 1663. Tới Malacca ông thấy sáu trăm dân Ca-tô bị chánh quyền Hòa-lan ngược đãi, chẳng cho phép đến một cha đạo hành nghề. Tháng giêng 1664, đến Masulipatam, ông được tin giám mục Cotolendi đã chết dọc đường đi nhận chức. Ông xuống tàu Anh, đi qua Tích-lan, vượt mũi Hảo-vọng, ghé đảo Saint Hélène, đảo Ascension, tháng bảy tới Anh, tháng tám đặt chân lên đất Roma. Đang khi ấy, vua chúa các nước Ca-tô hục hặc với nhau vì nhiều vấn đề. Vua Tây-ban-nha dựa vào quyền thừa hưởng cơ-nghiệp đã tới cai trị Bồ-đào-nha, cho đến năm 1640 là khi dân Bồ nổi dậy giành lại tự-do độc-lập. Pháp về phe với Bồ, viện trợ cho vua Bồ Alphonse VI nào người ngựa, nào tiền của.
Quyền hành của Vatican một phần nằm trong tay giáo hoàng, một phần nằm tản mát trong tay các hồng-y. Ý những người này tùy thuộc vào cái gì lợi cho họ, cái gì không, tùy theo nước nào thuộc phe họ, nước nào thuộc phe đối lập. Thời thế biến chuyển không ngừng; món lợi, điều hại, khuynh hướng ngả phe của mỗi người biến đổi theo.
Giáo-hoàng Alexandre VII lúng túng sợ mất lòng Tây-ban-nha, dùng dằng lơ đi việc công nhận nền độc lập của dân Bồ. Vatican dè dặt đối với cuộc tranh quyền giữa giáo sĩ Pháp với giáo sĩ Bồ ở Viễn-đông tuy phe Pháp là gà nhà. Mặc dù Lambert sơ suất không ủy quyền rõ ràng cho Bourges, một ủy ban gồm mấy hồng y vẫn họp để xét các vấn đề được nêu ra. Tháng giêng 1665, ủy-ban chiều ý Lambert, đặt Cao-miên và Chiêm-thành dưới quyền ông. Giáo hoàng cũng cho ông cùng với Pallu quyền cử người thay Cotolendi, cho họ có quyền trong thời hạn bảy năm cử người gốc Viễn-đông không biết chữ La-tinh làm cha đạo. Hai điều ông bị thất bại là không được làm giám mục cai quản những đất thuộc quyền Đỡ Đầu, không có quyền hành gì trên đất Xiêm, đất Pégou (Miến-điện) trừ quyền trông coi người Đàng Trong ở Xiêm.
Lúc ấy, cha đạo dòng Tên là Philippe Marini, người đã phải trốn khỏi Bắc-hà, cũng đang vận động ở Roma. Marini là người chịu khó viết lách về Viễn-đông. Năm 1663 ông cho xuất bản tại Roma một tác phẩm kể thành tích của dòng Tên trên đất Việt. Ông cũng viết một bài luận về việc dùng tiếng Việt để làm phép bí-tích; năm 1680, bài đó bị Vatican liệt vào sổ đen, nghĩa là dân Ca-tô bị cấm đọc.
Marini được giáo-hoàng Alexandre VII giao cho một thư bảo con chiên Đàng Ngoài rằng phải ngoan ngoãn tuân lời cha đạo. Khi trở lại Viễn-đông, ông đem theo một toán giáo sĩ, phe Pháp khó chịu lắm vì cả toán chẳng có ai là người Pháp cả.
Pháp phái giáo-sĩ tới Đàng Trong
Các giáo sĩ ước lượng rằng năm 1645 Đàng Trong có độ năm vạn tín đồ. Tháng bảy năm ấy, hơn ba tuần lễ sau khi Rhodes xuống thuyền đi Macao, Thượng-vương cấm đạo, phạt tử hình một người dân trong nước, cắt một ngón tay bảy người. Cuối năm sau, ba người nữa bị xử tử. Tuy vậy cứ nhận được quà quí như ngọc trai, vàng ròng của giáo-sĩ là chúa mềm lòng, cho nên Saccano, Charles della Rocca vẫn được ở lại hành nghề.
Hiền-vương lên ngôi năm 1648. Biên giới phía Nam đang ở đèo Cả, chúa mở xuống Phan-rang; biên giới phía Bắc đang ở Lũy Đồng-hới, chúa mở lên Nghệ-an. Chúa cần giáo sĩ dòng Tên làm môi giới với người Bồ để mua đại bác nên chỉ cấm đạo nửa vời. Hai giáo sĩ trên mang tiếng bị cấm ra khỏi Hội-an, bị cấm tuyên truyền, vẫn dễ dàng lén ra ngoài hành nghề. Pierre Marquez cùng Francois Rivas sang thay họ, được làm ăn khá dễ dãi. Nhiều thương thuyền Nhật đến buôn bán đem cho chúa lợi tức to lớn. Chúa thấy cần duy trì mối giao hảo với chính phủ tướng quân lại biết họ diệt đạo Ca-tô gắt gao nên Chúa gửi sứ thần sang báo rằng chúa cũng đang trừ khử đạo ấy như họ.
Cần mua đại-bác, chúa Hiền nhờ Marquez đem món tiền tương-đương với 10,000 đồng écu của Pháp [đồng tiền bằng bạc hay vàng có giá trị lớn] đi trả trước cho người Bồ, họ muốn quịt nên cứ lờ đi không giao hàng. Chúa nhờ ông sang Macao điều đình, ông ra đi đúng lúc Dominique Fuciti đến. Năm 1658, một tàu Bồ từ Xiêm đi Macao đã gặp bão còn bị tàu Hòa-lan rượt theo, bí quá phải ghé vào Đàng Trong ẩn núp. Chúa tịch thu tàu, cầm giữ thủy thủ, hành khách, dọa giết những người Bồ bị bắt. Marquez vô phúc có mặt trên tàu ấy nhưng may mắn là có một tàu Trung-quốc tạt qua trên đường tới Hải-nam. Ông lén nhờ chuyển hộ thư cho người Bồ. Người Bồ đành chịu đem súng tới Hội-an trả cho chúa. Chúa vui mừng, cho phép giáo sĩ dựng một nhà thờ mới ở đấy, cũng không quên gửi quà tặng đám Macao để làm hòa. Năm 1661 chúa Trịnh thu lại Bố-chính, Nghệ-an và chúa Nguyễn ngược đãi phe Ca-tô, hành hình bốn người.
Lambert cử Chevreuil, người vùng Rennes, đến Đàng Trong hoạt động. Tháng 6 năm 1664 ông này đem theo thư từ, tiền nong từ Xiêm xuống thuyền ra đi với sứ mệnh là tỏ cho giáo-sĩ thuộc quyền Bồ ở đất chúa Nguyễn biết phải phục tùng Lambert, kẻ đại-diện Vatican.
Chevreuil cùng một người thông ngôn Nhật lên bến Hội-an. Tuy cha đạo Bồ Marquez tiếp đón lịch sự, ông vẫn sợ bị đồng nghiệp này tống đi. Ông bèn lén lên Huế, liên lạc với Jean de la Croix, một vị quan triều chúa Nguyễn. Croix là người lai da trắng, dường như sinh ở Phi-luật-tân, chuyên nghề đúc đại bác, Hiền vương bắt được khi đánh chiếm Cao-miên. Croix trông coi xưởng đúc Thợ Đúc; lương bổng hậu, xe võng xênh xang, chẳng vì theo đạo Ca-tô mà bị vua hắt hủi. Croix đưa ông đến tá túc trong nhà giáo-sĩ Fuciti. Chevreuil lợi dụng một buổi lễ, khi có đông tín đồ, công bố rằng mình là đại-diện của Lambert, tức đại diện Vatican, ý nghĩa là ông vượt trên các giáo sĩ Bồ và là người cai quản con chiên khắp nước Đàng Trong. Ông không báo trước cho Croix hay Fuciti việc công bố ấy khiến Croix bất bình. Sinh ra e ngại, ông vội thuê thuyền trốn vào Đà-nẵng, lúc nào cũng có người thông ngôn Nhật đi kèm. Gặp Marquez, ông cùng đi về Hội-an. Ông trình giấy tờ chứng tỏ mình là đại diện của Lambert ra cho Marquez và Baudet thấy. Hai người, sau này cả Fuciti nữa, đều nhũn nhặn tỏ ra rằng lúc nào họ cũng tuân lệnh Vatican nhưng họ phải chờ cấp chỉ huy của họ ở Macao cho phép.
Chúa Nguyễn truyền lệnh cấm đạo. Bốn giáo sĩ Bồ, Pháp không được phép ra khỏi nhà. Tại Hội-an, nhà nước bày một cây thập ác ở giữa đường, ai đi qua cũng phải giẵm lên, dù là người ngoại quốc. Thương nhân Nhật sợ Giê-hô-va không nhiều bằng tiếc nhà tan, của hết, đành lìa đạo. Một người Việt chịu chết, ba đứa trẻ bắt chước người ấy. Quảng nghĩa có cả thảy độ bốn ngàn con chiên, hầu hết vội bỏ rơi Giê-su. Tổng cộng trong năm 1665, 43 người bị giết.
Các giáo-sĩ ở Đàng Trong bị trục-xuất. Ba người phe Bồ xuống thuyền đi Macao. Tháng ba năm 1665, Chevreuil xuống thuyền, mang theo một "di vật quí báu", đầu Lucie, cô gái bé độc nhất trong ba thiếu niên bị giết. Tội nghiệp em bé Lucie tưởng người ta cứ lớn là khôn, em không biết mê muội cuồng tín là gì, đã dại dột bắt chước và chết với hoang tưởng hiến thân cho một thiên chúa thương người, hoàn toàn không ngờ vực đã dâng mạng cho một thần dâm ác.
Tháng tám năm 1665, Chevreuil ở Xiêm lại theo lệnh Lambert đáp thuyền sang ĐàngTrong, lần này đi với một cha đạo Pháp trẻ tuổi là Antoine Hainques. Tới Phan-rí, Chevreuil bị sốt, mệt mỏi rút lui. Một mình Hainques mặc trá hình là lái buôn, đi lần lần lên Huế, vào nhà Croix tá túc mấy bữa. Năm 1666, giáo-sĩ phe Bồ là Rivas và Barthélemy Acosta cặp bến Hội-an; Acosta lai Nhật như Marquez. Hai người được Croix đón lên Huế nhưng mặc dù Croix quyền thế, ba tháng sau hai người vẫn bị chúa Nguyễn đuổi đi. Hainques trở thành cha đạo Tây-phương độc nhất hành nghề tại Đàng Trong cho tới năm 1668, khi Dominique Fuciti từ Macao quay lại để làm đại-diện cho giáo-sĩ phe Bồ. Mures, người chỉ huy giáo-sĩ phe Bồ ở Macao đã bắt Pierre Brindeau gửi đi Goa cho tòa án đạo xét xem có phạm tội hành nghề cha đạo lậu không; Brindeau là người đã được Lambert gửi tới Macao để điều đình về vấn đề phe Pháp đòi chỉ huy phe Bồ. Tình thế khó khăn, Fuciti sớm bỏ Đàng Trong ra đi.
Hainques ở Đàng Trong gửi hai phụ-giáo-sĩ Việt là Joseph Trang, Luc Ben, sang Xiêm học nghề cha đạo. Năm 1669 Ignace Baudet, từ Ma-cao đến Đàng Trong, gặp Brindeau đang phụ việc cho Hainques, thì ra tòa án đạo ở Goa đã tha bổng Brindeau. Năm 1670 Mar- quez cũng ghé Đàng Trong. Cả Baudet lẫn Marquez đều gặp Joseph Trang, Luc Ben, bấy giờ đã thành hai cha đạo. Trong một bức thư viết năm đó, Tissanier than rằng cả hai đều dốt đặc (Chappoulie, tome I, trang 183).
Các giáo sĩ khoe mộ được hàng vạn tín đồ ở Đàng Trong, thế mà khi tuyển có hai người để dẫn dắt con chiên, họ cũng chỉ kiếm được kẻ ngu si. Nếu những người theo họ thuộc giới khá giả, ắt có nhiều người thông minh lỗi lạc, học vấn uyên thâm chớ đâu đến nỗi ấy. Sĩ phu thời đó nhận xét không sai khi nói rằng giáo sĩ chỉ quyến dũ được những người khờ khạo, mê muội. Giới trí thức La-mã cũng nhận thấy y như thế về phong trào đạo Giê-su trong vài thế kỷ đầu dương lịch.
Hainques mắc bệnh sốt chết tháng chạp năm 1670, một tháng sau Brindeau lâm cùng bệnh chết theo. Đàng Trong chẳng còn giáo-sĩ Tây-phương nào cả.
Louis Chevreuil tới Phan-rí chùn bước như nói trên. Lambert cử ông sang Cao-miên để gặp Paul d’Acosta. Ông thấy Nam-vang có một xóm dân Bồ-đào-nha. Ông cũng thấy dân Đàng Trong sống ở đó độ bốn năm trăm người, khoảng năm chục theo đạo Ca-tô; Udong, kinh đô nước Cao-miên khi ấy, có độ năm sáu trăm người Đàng Trong, có một giáo-sĩ dòng Tên là Charles della Costa sống với họ. Chevreuil chịu thua người Miên trên đất Miên; họ cũng như người Thái, ông dụ cách nào họ cũng vẫn chê Giê-hô-va, chê Giê-su. Ông cũng được chứng kiến cảnh dòng Tên buôn bán. Một thuyền dòng đó từ Macao ghé bến kinh đô, gỡ xuống toàn hàng Trung-hoa có giá, hàng ấy bán đi mua thành hàng Cao-miên nhiều quá, một thuyền chứa không hết, phải dùng tới hai chiếc.
Chevreuil bị người Bồ đòi phải trình diện tòa án đạo. Năm 1670 ông bỏ Miên sang Macao rồi đến Goa ra tòa nhưng cũng như Brindeau, ông được thả. Năm sau, Pallu qua đấy trên đường trở lại Viễn-đông, đón ông đi luôn.
Pháp phái giáo-sĩ tới Đàng Ngoài
Năm 1630, trước khi vĩnh viễn từ giã Đàng Ngoài, Rhodes đem mọi việc dặn dò ba người Việt phụ-giáo-sĩ là Francois, André, Ignace. Không kém các giáo-sĩ dòng Tên ở Cửu-châu bên Nhật, ông khéo dạy tín đồ phải trung với giáo-hoàng. Ông kiếm được để đem đến Roma một thư năm ngàn người tỏ lòng thành với Urbain VIII. Ông đi rồi, một điều xảy ra, "đáng quí" (Chappoulie, tome I, trang 38) cho bọn giáo sĩ thờ thần Giê-hô-va dâm ác, là đất Bắc-hà đã có người tử đạo đầu tiên. Nạn nhân khư khư với niềm tin là thiên chúa Giê-hô-va quá tốt, bị chủ, một người hoàng tộc, chém chết.
Tháng ba năm 1631, ba giáo sĩ dòng Tên từ Macao vào đất vua Lê, chúa Trịnh làm ăn, dẫn đầu là Gaspard d’Amaral, một người Bồ trước đã có lần đưa Rhodes quay lại đó. Tuy cần kẻ trung gian liên lạc với thương gia Bồ, chúa Trịnh Tráng vẫn chỉ cho hai người ở lại thôi.
Các giáo sĩ nói là năm 1640 Đàng Ngoài có độ mười vạn người theo đạo. Nhiều trường hợp con chiên ngoan đạo quá, thi-hành đúng lệnh Giê-hô-va đã đập phá tượng đạo khác (Chappoulie, tome I, trang 39). Majorica kể rằng chúa Trịnh bất bình vì hành động của họ. Năm 1643, chúa ra lệnh cấm đạo, kể tội bọn giáo sĩ là đã dạy dân điều sai lầm, lại còn gian dối.
Tháng hai năm 1646, bảy giáo sĩ từ Macao xuống thuyền, ba người đi Hải-nam, bốn người đi Bắc-hà. Bốn người này thạo tiếng Việt bậc nhất trong các giáo sĩ. Tàu đắm, quỉ sứ hay Giê-hô-va bắt đi mất sáu người, trong có Gaspard d’Amaral; một người thuộc nhóm đi Hải-nam sống sót.
Chúa Trịnh không gắt với đạo Ca-tô, giáo sĩ Marini kể rằng các vụ ngược đãi đều nhỏ, chẳng qua chỉ đáng coi là ruỗi muỗi quấy rầy. Nhiều người Ca-tô làm việc cho vua chúa; bà nấu bếp cho chúa Trịnh Tráng là một. Những người Việt làm phụ-giáo-sĩ đi lại tự do, họ có vài sách kinh bằng tiếng Việt do Majorica dịch từ tiếng Âu-châu sang. Giáo sĩ giỏi tổ chức tình báo nên chúa Trịnh định làm gì họ cũng biết trước.
Năm 1656, một tàu Bồ bị đắm ở cửa Hồng-hà, quan khám phá ra là tàu đem chì, lưu-hoàng cung cấp cho chúa Nguyễn Đàng Trong. Rangel, trưởng dòng Tên cãi rằng ông không buôn bán nên chẳng biết gì, lại khéo vận động lén với mấy bà quyền thế trong phủ chúa làm cho hai người bị bắt trên tàu được thả hết. Năm 1657, chúa Trịnh Tùng thọ 81 tuổi mọc thêm răng, phủ chúa ăn mừng; Rangel đem lễ vật đến chúc thọ, được chúa thân ái há miệng cho xem. Chúa qua đời mấy ngày sau, con lên thay.
Chúa Trịnh Tạc nhận thấy đạo Ca-tô là một mối nguy cho đất nước, vấn đề đạo ấy ở Nhật, ở Đàng Trong càng làm chúa Trịnh thấy mình lo là phải. Tháng sáu năm 1658, chúa báo cho Onuphre Borgès, trưởng đoàn giáo sĩ, lệnh trục xuất cả bọn. Borgès van nài, chúa cho ông và Tissanier ở lại. Sáu người là Francois Rangel, Philippe Marini, Joseph Agnese, Charles della Rocca, Barnabé d’Oliveira, Pierre kéo nhau xuống thuyền về Macao. Hai người ở lại cố mua chuộc lòng chúa. Tháng hai năm 1660, nhân ngày Nguyên-đán, họ đến phủ chúc tết, lạy chúa bốn vái, lạy mẹ chúa bốn vái. Bị cấm không được ra khỏi thành Hà-nội, họ đành hành nghề vụng trộm qua trung gian của những người Việt phụ-giáo-sĩ, một người Việt gốc Đàng Trong là Raphael Rhodes và một thương gia Nhật giàu có là Paul de Vada. Giáo sĩ Pierre Albier ở Macao sang được chúa cho phép ở lại hành nghề.
Năm 1663, chúa cấm đạo, đuổi giáo sĩ. Vua chúa, sĩ phu phiền muộn vì thấy họ đem những điều nực cười, vô căn cứ ra dụ dỗ khiến các kẻ thô lỗ, ngu dốt và đàn bà, con gái, mù quáng cắm đầu cắm cổ tin theo (Chappoulie, tome I, trang 211). Bấy giờ Macao bị thời cuộc Trung-quốc đảy vào cảnh gian nan, các giáo-sĩ bị đuổi ấy không muốn quay lại đó nên tính kiếm chỗ khác nương tựa. Tissanier, Albier chạy đi Xiêm ở với Valguarneira, Borgès đáp tàu Hòa-lan sang Batavia.
Năm 1644, quân Mãn châu đánh bại nhà Minh, lập nên nhà Thanh. Năm 1660, Trịnh Thành Công trung thành với nhà Minh, giựt đảo Đài-loan của Hòa-lan dùng làm căn cứ chống lại triều đình mới. Quân Mãn-châu áp dụng chiến thuật vườn không nhà trống để quân Đài-loan không trà trộn được với dân trên lục-địa. Vua Khang-hi bắt dân dọc duyên hải bỏ ruộng vườn, di cư hết vào sâu trong đất liền; đất Macao trông ra biển nên dân Tàu ở đó phải chịu cùng số phận. Tháng 5 năm 1662, 22 chiến thuyền Mãn Thanh đến vây quanh Macao, bắt dân Tàu thi hành lệnh. Năm 1663, hai giáo sĩ dòng Tên là Jacques Le Faure, người Pháp và Jean Adam Schall von Bell, người Đức, dâng cống vật xin nhà Thanh đặc biệt miễn cho dân Tàu ở Macao khỏi phải dọn đi; Adam Schall quen lớn trong Thanh triều vì ông từng là quan dạy Khang-hi khi vua còn nhỏ. Nhà Thanh nhẹ tay một thời rồi đến năm 1666 đốt tàu Bồ, ngăn trở việc hàng hải, khiến cho Macao xuống dốc, chính phủ phải bán đồ bằng bạc trong nhà thờ đi mà tiêu.
Tháng sáu năm 1666, Francois Deydier đại diện Lambert từ Xiêm đáp thuyền buồm Tàu sang Bắc-hà tiến hành chương trình tranh quyền điều khiển con chiên đang nằm trong tay phe Bồ. Pallu luôn luôn nhắc nhở giáo sĩ nói cho dân Việt biết rằng nước Pháp ở xa trên bốn ngàn dặm, lại không sở hữu đến một tấc đất ở Ấn-độ, chẳng có gì đáng làm họ e ngại. Tới cửa sông Hồng, Deydier liên lạc với Raphael Rhodes. Người này báo cho ông rằng có một giáo sĩ dòng Franciscain (Phan-xi-cô) từ Phi-luật-tân đến, lấy tư cách là đại diện Vatican để điều khiển con chiên nhưng vừa bị chúa Trịnh đuổi đi. Deydier xuống tàu ở Hà-nội, đến nhà Raphael trong khu xóm Hòa-lan tá túc rồi nhờ một người Việt phụ-giáo-sĩ đưa đến gặp Paul de Vada. Ông đưa giấy tờ ra chứng minh, cố thuyết phục Vada công nhận mình có quyền chỉ huy giáo-sĩ phe Bồ nhưng Vada thấy ông không được dòng Tên giới thiệu nên một mực hững hờ.
Deydier bỏ tiền ra cho Raphael vay mua một chiếc tàu, vừa cho mấy người học nghề giáo sĩ đánh cá làm kế sinh nhai, vừa làm nơi cho ông ẩn trốn. Ông mặc trá hình là công nhân. Tuy phần nhiều những người học làm giáo sĩ ngày trước đã bỏ cả, ông vẫn kiếm được tám người phụ-giáo-sĩ họp mặt một buổi trong thuyền của ông vào tháng mười, xúi họ rồi được họ nghe theo ký tên vào một thư gửi cho Lambert tỏ lòng quí mến ông.
Tháng hai năm 1688, Deydier gửi Benoit Hiên và Jean Huê sang Xiêm học nghề cầu lễ. Hai tháng sau, Lambert phong họ làm cha đạo. Nhiều con chiên đã bỏ đạo, Deydier cho là tại Borgès ngày trước cẩu thả, mới hướng dẫn qua loa vài ngày người muốn nhập đạo đã đem họ ra rửa tội. Năm 1667, chúa Trịnh xuất quân đánh Mạc Kính Vũ ở Cao-bằng, quan quân tuần phòng cẩn mật, Deydier sợ bị bắt, ít dám đi lại. Tháng sáu năm 1668, hai tàu Hòa-lan đến, ông nhận được thư từ Xiêm gửi cho sau hai năm xa cách. Hai cha đạo Việt về nước hành nghề; Benoit Hiền dốt nát, không thuộc lòng nổi đôi điều căn bản.
Lambert vào Việt-nam
Tháng sáu năm 1669 một tàu Macao cặp bến Phố Hiến, trên có ba giáo sĩ phe Bồ, người đứng đầu là Dominique Fuciti, hai người kia là Balthasar de Rocha, người Bồ và Philippe Fieschi, người Gênois. Sau sáu năm vắng mặt ở Bắc-hà, bây giờ phe Ca-tô Macao mới trở lại. Fuciti vừa xuống bờ đã được con chiên bí mật đưa ngay lên Hà-nội sống lén lút. Đúng lúc đất Bắc đang mở một đợt cấm ngặt đạo Giê-su, quan lại khám xét gắt gao, hai người kia thấy không yên, vội lẩn trốn. Dân chúng ai thờ Giê-su bị đòn năm mươi roi. Raphael Rhodes biết phòng bị, quan-lại khám nhà chẳng tìm được tang vật gì. Deydier đóng vai thợ như đã nói, bỏ Hà-nội xuống phố Hiến là nơi dễ trà trộn với thường dân Da Trắng.
Tháng bảy cùng năm ấy, một giám mục Pháp bước vào sân khâu Bắc-hà chơi trò hề như các giáo-sĩ đã tới trước, vừa trổ ngón dành giựt quyền lợi với cha đạo Bồ vừa giảng lẽ yêu thương. Một tàu buôn nhổ neo ở Xiêm đem ông với hai cha đạo nữa là Jacques de Bourges, Gabriel Bouchard đến Đàng Ngoài. Đây là con tàu Pháp đầu tiên xuất hiện ở Bắc-hà. Tàu lướt trên sông Hồng treo cờ rất lạ đối với dân địa phương, thuyền trưởng cho người dùng tiếng Bồ đi liên lạc với quan phụ trách ngoại thương. Cha đạo Deydier dối trá đã quen dặn viên thuyền trưởng Bourguignon Junet rằng phải khai gian về số giáo-sĩ, Junet bèn nói dối là tàu chỉ có mỗi một cha đạo thôi để theo tập quán Pháp phục vụ thủy thủ. Trên tàu, một mình giám mục Lambert mặc áo giáo-sĩ, hai cha đạo kia mặc trá hình làm lái buôn.
Junet trình bày cho quan ta rằng công-ti Đông Ấn-độ của Pháp mới ra đời năm 1664, phái ông đi tìm thương cảng để buôn bán. Tuy nhóm Hòa-lan đã tung tin ra là Pháp đem cha đạo lậu vào trong nước, chúa Trịnh vẫn lờ đi. Chúa thỏa thuận cho Pháp mở thương điếm ở phố Hiến, lại còn ngỏ ý mong mỏi họ đem súng đại bác sang bán cho.
Fuciti tự nhận là người cầm đầu giáo-hội Ca-tô ở Bắc-hà, ông có hẳn hoi giấy chứng nhận cấp bởi Michel de Angeli, giáo sĩ dòng Augustin, tòa giám mục Macao. Theo ông biết thì tháng 11 năm 1664 hội Tuyên-truyền ở Roma đã quyết-định cho trưởng dòng Tên toàn quyền bổ nhiệm các giáo sĩ thuộc quyền dòng. Ông cũng được Piccolomini, trưởng dòng Tên, giảng rằng chiếu theo quyết-định ấy, giáo sĩ dòng Tên không phải phục tòng những kẻ khác dù những kẻ này đại diện hội Tuyên-truyền. Ông bảo con chiên Bắc-hà phải tuân theo ông, chớ có nghe lời phe Pháp.
Deydier muốn bắt con chiên công nhận giám mục Lambert là kẻ có quyền cao nhất trong đám người Ca-tô ở Bắc-hà, bèn mời Fuciti họp với vài phụ giáo-sĩ cùng vài con chiên hạng khá. Ông đưa ra sắc lệnh cử Lambert làm đại diện Vatican. Fuciti vẫn không chịu, viện cớ rằng miền Viễn-đông thuộc quyền Đỡ Đầu của Bồ, Lambert chưa được vua Bồ chấp nhận tức là vẫn chưa có chức vị hợp pháp.
Bắc-hà đã có hai cha đạo người Việt, Lambert phong chức ấy cho bảy người nữa. Tháng hai năm 1670, ba cha đạo Pháp họp với chín cha đạo Việt trong một cuộc hội-nghị (synode) để bàn về việc tổ chức giáo-hội Bắc-hà và nhất là để tôn Lambert lên làm chủ giáo hội ấy. Lambert cùng Bouchard lên tàu Pháp quay về Xiêm để Bourges ở lại giúp Deydier. Hai cha đạo này giả làm thợ đêm đêm tiếp tục lẩn đi giảng cho người ta nên ăn ở thẳng thắng đường hoàng như mình, hiền lành như Giê-hô-va.
Lambert mang danh là giám-mục Đàng Trong mà chưa bao giờ tới đấy nên các giáo-sĩ Pháp muốn ông đi một chuyến, mặt nữa hai cha đạo Việt là Joseph Trang và Luc Ben tự thấy không đủ sức lèo lái tín đồ trong nước nên cần người ngoại quốc đến cầm quyền, ông bèn quyết định đến đất chúa Nguyễn. Tháng bảy năm 1671, ông cùng hai cha đạo Việt ấy và hai cha đạo Pháp là Bénigne Vachet, Guillaume Mahot, kín đáo xuống tàu dời Xiêm. Tàu nhỏ, bốn thủy thủ đều là người Đàng Trong, ban đêm năm người đổ bộ lên một chỗ ở Bình thuận giáp giới Chiêm-thành. Ông lần mò tới Hội-an, sống lén lút trên một đảo nhỏ. Ngày 19 tháng giêng năm sau ông hội-nghị với Guiart, Vachet, Trang và vài người phụ-giáo-sĩ, cốt đặt quyền ông lên trên các giáo-sĩ dòng Tên trong nước. Hội nghị một chiều, chẳng có giáo sĩ phe Bồ nào dự cả.
Cuối tháng ba, Lambert cùng Vachet xuống tàu quay về Xiêm. Tàu đang ngược sông Chao Phraya thì du thuyền của sứ-thần chúa Nguyễn xuôi dòng trờ tới, sứ thần dừng lại hỏi han. Trong tàu có mười hai đứa trẻ Việt ông đem trộm sang Xiêm cho học đạo, ông hết hồn, sợ bị bẻ về tội bắt cóc trẻ con, nhưng ông ngọt ngào nói quanh, chuyện cũng êm qua.
Hòa-lan muốn có độc quyền buôn bán ở Xiêm, cậy có hải lực mạnh, vây kinh thành Ayouthia, khiến năm 1664 vua Narai phải nhường cho họ nhiều quyền lợi. Năm 1673, nhà vua dùng bọn Pallu, Lambert nối liên lạc ngoại giao với Pháp để tìm đường cầm chân họ. Hiền-vương thấy thế, biết cần thay đổi chính sách, năm 1674 mời Lambert sang, rồi năm sau mời nữa.
Tháng bảy năm 1675 Lambert đáp tàu của người Đàng Trong từ Xiêm đến thẳng Hội-an. Ra Huế ông không được chúa tiếp kiến vì chúa vừa mới có người con trai thứ nhì qua đời, nhưng ông được chúa cho phép tự do đi lại. Ông trở xuống Hội-an chơi trò tranh quyền với phe Bồ. Màn kịch diễn ra trong một chiếc thuyền; ông đưa giấy tờ chứng minh quyền hành ra, hai người phe Bồ, Candone đứng đầu, có Acosta hậu thuẫn, không công nhận. Giấy tờ bay xuống sông. Ba ngày sau Lambert trục xuất hai người phe Bồ khỏi giáo-hội.
Candone không vừa, đã trục xuất Lambert về tội hành nghề cha đạo trong địa phận của ông mà không được chính ông cho phép, ông còn thông báo quyết định của mình cho tín đồ nữa. Lambert viết thư mách hội Tuyên-truyền ở Roma. Tháng 5 năm 1676, Lambert quay lại Xiêm. Vatican ra lệnh bắt các giáo sĩ phe Bồ phải rút lui, nhường đất Việt-nam cho giáo sĩ Pháp đến làm ăn.
Pallu rồi Sévin sang Âu-châu vận-động
Pallu thấy cần phải có quyền chỉ huy phe Bồ mới dễ làm ăn ở Xiêm, vả lại ông cũng muốn xin phép Vatican cho ông lập một hội thánh riêng, thành ra tháng giêng năm 1664 đến Xiêm thì tháng giêng năm sau ông lại quay về Âu-châu. Ông đi đường bộ, tháng tư năm 1667 tới Roma. Giáo-hoàng Alexandre VII hấp hối, tháng sau mất, một hồng y thân Pháp lên thay lấy tên là Clement IX. Ngôi giáo-hoàng là địa vị cao nhất trong xã hội Ca-tô, thời đó những người bầu đều thèm đến lượt mình được lên ngôi, thường ngắm xem kẻ nào coi bộ sắp về chầu chúa thì chọn, nên không ai ngạc nhiên khi bộ mặt chủ chăn ở Vatican thay đổi luôn.
Trong khi chờ đợi ủy ban bốn hồng y do giáo-hoàng giao cho xét những đòi hỏi của ông, Pallu dời Roma sang Pháp. Tháng giêng năm 1668, ông được gặp vua Pháp, tháng 11 quay lại Roma. Ông gặt hái được nhiều thắng lợi. Giáo-hoàng cho phe hội Tuyên-truyền tức phe Pháp quyền cai quản giáo sĩ làm ăn ở địa phận Xiêm, giáo sĩ phe Bồ phải chịu ở dưới quyền phe Pháp.
Tháng 12 năm 1669, giáo-hoàng lại chết, ban bầu cử lựa người kế vị rất gay go, mãi tháng tư năm sau mới xong. Nhưng họ chọn được một người thật vừa ý, một ông cụ 76 tuổi lên ngôi thành giáo-hoàng Clement X.
Pallu về Pháp tháng tư năm 1670 rồi cùng sáu giáo-sĩ xuống tàu thuộc Công-ti Đông Ấn-độ của Pháp đi Đông-phương. Họ chia nhau ngồi tản mác trong cả ba tàu của công ti là Phénix (Phượng-hoàng), Vautour (Chim Ưng), Dauphin (Cá Heo). Pallu ngồi trong tàu Phượng hoàng. Tuy không được phép lập giáo-hội riêng, lại còn phải nhận lệnh cần chỉ bảo cho Lambert bỏ thói gây hấn với phe Bồ, chuyến vận động vừa qua ở Âu-châu của ông vẫn là thành công. Phe Pháp đã lấn được thêm quyền hành của phe Bồ.
Tháng 3 năm 1671, Pallu đặt chân lên Surate. Đọc xong một đống thư từ đã chờ sẵn ông ở đấy, thấy cần nhiều quyền hành nữa, ông vội cử giáo-sĩ Charles Sévin, một cha đạo đồng hành với ông, quay lại Âu-châu công cán.
Rhodes chết sớm mất 12 năm thành thử không được như Pallu, chứng kiến hậu quả cuộc vận động ở Paris của ông. Năm 1672 chẳng những Pháp sang Á-châu truyền đạo, buôn bán, còn cho cả một đoàn thuyền gọi là Hạm-đội Ba-tư gồm 6 tàu chiến và một số tàu khác đi xâm-lăng. Ngày 25 tháng bảy, hạm đội Pháp chiếm Méliapour thuộc xứ Golconde. Tháng 2 năm 1672 tàu Vautour đưa Pallu đến Bantam ở miền Tây đảo Java. Tháng 5 năm sau ông tới Xiêm. Ông không được tận mắt thấy giai đoạn cuối của cuộc chiến ở miền Đông bán đảo Ấn. Vua Louis XIV gây dựng Pháp thành một nước binh lực mạnh, văn-hiến rực rỡ bực nhất lục địa Âu-châu nhưng hải quân Pháp vẫn không địch nổi liên-quân Hòa-lan Golconde. Tháng 7 năm 1774, quân Pháp ở Méliapour thua trận, đầu hàng, hạm đội chỉ còn hai chiếc tàu chạy về nước.
Tháng 5 năm 1672 Sévin tới Pháp. Nước Pháp đang ở tình-trạng chiến tranh với Hòa-lan nên muốn hòa-hoãn với Bồ-đào-nha. Đầu năm 1673 vừa tới Roma, ông nghe tin Fragoso đã bị tòa thánh bắt lập tức dời khỏi đất Xiêm, phe Pháp thắng thêm một keo. Tháng 12 năm ấy giáo-hoàng xác định rằng các đại diện tòa thánh cùng những kẻ dưới quyền họ không phải đến Bồ để xuống tàu đi các xứ ngoài Âu-châu. Đầu năm sau Sévin quay lại Pháp để đi Xiêm. Tháng 6 giáo hoàng ra lệnh thêm rằng các giám mục cùng các giáo sĩ ở vùng Ấn-độ phải tuân lệnh của hội Tuyên-truyền. Phe Pháp thắng to. Vì Pháp xung đột với Hòa-lan, Sévin tránh đường hàng hải, ông cùng bốn giáo-sĩ nữa đi đường bộ, tháng năm 1676 tới Xiêm. Lúc này Pallu đang âu sầu lội bộ từ bờ Thái-bình-dương băng ngang đất Mễ-tây-cơ sang bờ đại-dương bên kia.
Pallu trôi dạt
Tới Xiêm chưa được ba tháng, tháng 8 năm 1673 Pallu đáp một tàu Pháp đi Bắc-hà. Tàu gặp bão dạt vào Phi-luật-tân, ông liền bị người Tây-ban-nha bắt giữ. Đương khi ấy Pháp với Tây-ban-nha bất hòa với nhau. Họ cho ông tạm trú trong nhà của mấy giáo-sĩ dòng Tên ở Manille. Họ nghi ông là người Pháp lấy tư cách cha đạo để đi tranh thương, bẻ ông tội là cha đạo mà lọt bất hợp-pháp vào đất dưới quyền Đỡ Đầu của họ rồi họ gửi ông sang Madrid cho chính quốc xét xử.
Tháng 6 năm 1675 chính phủ Manille gửi Pallu xuống tàu đi Âu-châu theo ngả Mễ-tây-cơ. Tháng giêng năm sau, vừa tới Acapulco bên bờ Thái-bình-dương ông liền viết thư khiếu nại với phó-vương Mễ. Người Ca-tô cai trị đất Tân-thế-giới dễ dàng nên trắng trợn phô-bày sự cấu kết giữa đế-quốc giáo-quyền vớí đế-quốc thế-quyền, phó-vương Mễ lại chính là tổng-giám-mục xứ ấy. Ông này đã nhận được báo-cáo của cha đạo dòng Tên ở Manille về người đồng nghiệp Pháp của họ rồi, họ cảnh giác rằng phải coi chừng vì đây là một kẻ nguy hiểm, một tên gián điệp, đồng thời là một tay buôn lậu (Chappoulie, tome II, trang 3). Phó-vương, hay tổng-giám-mục cũng thế, xứ Mễ lơ đi không trả lời thơ khiếu nại của đồng nghiệp người Pháp. Ông này được dẫn tới Vera Cruz , đưa xuống tàu của hạm-đội Tây-ban-nha, vượt Đại-tây-dương sang Âu-châu. Lên bến Cadix tháng 11 năm 1676, ông được đưa tới Ma- drid rồi được thả, thì ra những thư ông gửi dọc đường cho Roma đã có hiệu quả, tòa thánh đã đòi chính phủ Tây-ban-nha giải phóng ông.
Tháng 6 năm 1677 Pallu sang tới Roma gặp giáo-hoàng, lại một giáo hoàng mới nữa rồi, ông này tên là Innocent XI. Tháng 10 năm sau, chủ chăn ký lệnh triệt hồi những giáo sĩ phe Bồ đã cản trở việc làm của "đại diện tòa thánh" (danh từ chỉ phe Pháp), ông bắt mọi giáo sĩ bất cứ thuộc phe nào, cứ ở khu vực ông giao cho phe Pháp là phải thề trung thành với họ. Tháng 8 năm 1680, ông phong cho Pallu và Lambert quyền bao trùm giáo sĩ khắp Viễn-đông. Pallu có nhiệm vụ thứ nhì là cai quản toàn cõi Trung-quốc và nhiệm vụ thứ ba là một mình coi riêng chín tỉnh miền Nam Trung-quốc. Lambert có nhiệm vụ thứ nhì là cai quản toàn cõi bán đảo Đông-dương và nhiệm vụ thứ ba là một mình coi riêng Đàng Trong. Dédier và Bourges cùng coi Bắc-hà, cả hai đều được thăng chức giám mục. Laneau coi Xiêm.
Năm 1679, Pallu sang Paris tiếp-xúc với giáo-hội và triều đình Pháp. Sự thành công của ông ở Roma chỉ là một cuộc đánh đổ phe dòng Tên thân Bồ. Phe này hùn hạp bao sức lực gây dựng sản nghiệp ở Viễn-đông, nay bọn Pháp phỗng mất, cha đạo trong phe còn bị giáo hoàng hạ nhục ra lệnh đuổi khỏi Đàng Trong, Đàng Ngoài. Nhưng vua Louis XIV đối lập với Tây-ban-nha, mới chiếm một phần đất Hòa-lan, vẫn muốn duy trì mối giao hảo với đồng minh là Bồ; thêm vào đấy, linh mục riêng của vua là cha Chaize rất thân với dòng Tên. Vua muốn Vatican nhẹ tay trong việc thực thi lệnh giáo-hoàng đối với dòng ấy. Vua được chiều ý. Sau khi Pallu triều kiến vua, vua ân tứ cho các cha đạo Pháp ở đất chúa Trịnh, chúa Nguyễn và Trung-quốc được làm công-chứng-viên (notaire) hoàng triều, nghĩa là làm nghề nhận thực chữ ký. Thế là bọn giáo-sĩ Pháp kiêm hai chức vụ, một cho đế-quốc giáo-quyền, một cho đế-quốc thế-quyền. Vua Pháp coi thường bọn giáo-sĩ như Pallu, cho họ một chức nhỏ tí teo như vậy mà giám mục Chappoulie hân hạnh ca tụng là họ được một vinh dự (honneur) vua ban (Chappoulie, tome II, trang 80). Về tiền nong, Pallu chỉ được vua hứa sẽ cho một món nhỏ thôi nhưng được bà Montespan tặng một mớ quà "khá đẹp". Ông xuống tàu rời Pháp tháng 3 năm 1681, tới Xiêm tháng 7 năm sau.
Lòng tin của trưởng nữ đạo Ca-tô
Vua Louis XIV anh hùng bá-chủ Âu-châu nên Vatican phải chiều chuộng. Gần như vua luôn luôn có tình nhân, hết bà La Vallière đến bà Hầu-tước Montespan, rồi bà Maintenon, giáo-sĩ trông thấy sờ sờ trước mắt nhưng vẫn sợ một phép, lúc nào cũng phải tâng làm Đức Vua Rất Mộ Đạo Ki-tô (le Roi Très Chrétien). Trong các nước đạo Ca-tô, nước Pháp mạnh nhất nên được nịnh là trưởng nữ của giáo-hội, người Pháp hãnh diện tự coi nước họ là vương quốc mộ đạo nhất thế gian.
Con gái hầu tước Mortemart lấy hầu tước Montespan năm 1663, năm sau được tuyển làm người hầu cận hoàng hậu Marie-Thérèse, con vua Tây-ban-nha, vợ vua Louis XIV, rồi sau ba năm nữa trở thành tình nhân của ông vua Rất Mộ Đạo Ki-tô này. Trong 13 năm dan díu hai người có với nhau sáu con sống tới tuổi trưởng thành.
Hoàng hậu đã cho chồng ở với tình nhân như không còn mặc chồng lợi dụng địa vị của mình để xâm lăng. Mối liên hệ thông-gia làm cho Hòa-lan thuộc vua Áo rồi sang tay vua Tây-ban-nha. Để phòng hờ rắc-rối về sau, vị vua này quyết định tặng con gái một món của hồi môn rất lớn, với điều kiện con chịu nhận mất quyền thừa hưởng đất đai. Vua Louis lấy cớ là vợ không được trả tiền hồi môn sòng phẳng nên vẫn có quyền về đất, đem quân chiếm một phần Hòa-lan. Vua lo vơ vét của cải, tình nhân của vua, dù là tình nhân cũ, tha hồ vung vãi đi. Khi Pallu tạt qua Paris, vua xỉa cho tí tiền nhưng bà Montespan tặng hậu hĩ hơn nhiều. Có một điều khi ấy bà không biết: bà đang bị bí mật điều tra trong một vụ án lịch sử gọi là vụ Phòng Nóng Bỏng (Chambre Ardente).
Khoảng năm 1673, hai cha đạo nhà thờ Nôtre Dame ở Paris tố cáo với cảnh sát là một số tín đồ thú nhận trong lúc xưng tội rằng đã giết người vì cảnh tình yêu tay ba. Cảnh sát trưởng Paris là Nicholas de la Reynie cho điều tra. Năm 1677, ông khám phá ra một đường dây buôn lậu thuốc độc rộng tới Anh, Bồ, Ý nhưng chỉ tìm được một kẻ tình nghi không quan trọng là Vanens.
Tình cờ lời khoe khoang của bà thày bói Marie Bosse lọt vào tai cảnh sát. Bà đã thốt ra: "Nghề tôi làm thật đáng say mê! Khách sang nhất hạng! Công, hầu, vương, chúa, chẳng ai địa vị thấp hơn. Ba vụ đầu độc nữa thôi, rồi tôi nghỉ việc, thế là của cải đủ rồi!" Một điều-tra-viên giả bộ đến nhờ bà giúp cho chị giết chồng, bà đưa ra một chai thuốc độc. Cảnh sát ập vào nhà bà thu được nhiều tang vật. Bà Bosse góa chồng, ở chung với một con gái, hai con trai và bà Vigoreux; bà này cũng làm thày bói. Cả năm người ngủ chung một giường. Bà Bosse có hai đời chồng và bà đã để cho bà Vigoreux làm tình nhân với cả hai người chồng.
Cảnh sát tra hỏi năm người đó, phanh phui ra tên những kẻ mua thuốc độc. Một bà tên là Pou- laillon lấy thuốc hại chồng, chồng thấy hành động của bà đáng nghi, chạy thoát vào tu viện sống. Cách các bà hại người thường là rắc thuốc độc lên áo, nạn nhân mặc vào bị phỏng lở loét, rồi các bà lấy cớ chữa chạy, thoa thuốc độc lên các vết thương, độ vài tháng thì nạn nhân chết. Tháng 3 năm 1679 vua cho lập một ủy-ban điều tra kín. Phòng tra-vấn thắp nến, treo màn đen, người ta gọi nôm na là Phòng Nóng Bỏng.
Một góa phụ là bà La Voisin bị bắt vì bị tình nghi dính líu vào nhiều vụ đầu độc. Bà khai rằng bà chẳng làm gì ngoài nghề coi chỉ tay và xem tướng nhưng bà lại xưng rằng bạn bà là bà mụ đỡ đẻ La Lepère chuyên phá thai. Bà này khai là chỉ chữa bệnh cho phụ nữ thấy kinh-nguyệt muộn, tuy nhiên gái ăn sương bị chửa thì bà cũng ra tay cứu giúp. Một người chứng khai rằng nhóm bà La Voisin đã giết hại 2500 thai nhi của những người mẹ chót lỡ mang bầu.
Tháng 5 năm 1678, hai bà La Bosse, Vigo- reux bị hành hình đốt sống, một con trai bà La Bosse bị treo cổ. Tiếp tục điều tra, cảnh sát thấy các bà phù thủy trộn nhân-ngôn, lưu-hoàng, acide sulfurique, tinh-trùng, máu kinh-nguyệt, cóc khô, dơi khô làm thuốc.
Càng điều tra, cảnh sát càng thấy những người danh vọng dính líu. Jean Racine, một nhà viết kịch lừng danh, bị tình nghi đầu độc tình nhân nhưng họ không bắt. Tháng giêng năm 1680, họ ra lệnh bắt nhiều người có địa-vị như viên sĩ-quan chỉ huy lính thị vệ nhà vua là Công-tước Luxembourg, một bà được vua quí mến là Madame de Polignac, các bà quí tộc như bà Công-tước Soissons, bà Hầu-tước Alluye, v.v.. Giới quyền quí xôn-xao.
Cảnh sát dùng nhiều phương pháp tra tấn từ bắt ngồi lên ghế lởm chởm những đinh sắt, đóng nêm vào cổ một thứ giầy ống cho nêm siết chặt xương cẳng lại, đến đổ nước vào mồm cho bụng chướng lên, kéo căng thân thể cho các khớp xương lỏng ra. Bà La Voisin khai thế nào vẫn không vừa lòng họ, bà bị đóng nêm mấy lần. Tháng 2 năm 1680 bà bị đem ra đốt tươi. Ai hâm mộ văn chương Pháp đọc Les Lettres (Những Bức Thư) của Madame de Sévigné, một nữ sĩ đương thời, có thể thấy bà La Voisin "bị xiềng xích. Bà không ngừng nguyền rủa, bà bị phủ rơm lên người, năm sáu lần bà hắt rơm đi, rồi cuối cùng ngọn lửa mỗi lúc một cao, không thấy bà đâu nữa."
Một người là Lesage khai hai cha đạo Mari-ette và Davot làm lễ mi-sa đen, nghĩa là lễ theo kiểu đạo Ca-tô nhưng để cầu khẩn quỉ Sa-tăng. Cha xứ Mariette bị điệu từ Toulouse lên Paris. Các cha đạo Deshayes, Cotton, Davot, Tournet, Guibourg bị tố cáo.
Cha Davot bị tố là dùng thân thể một cô gái trần truồng làm bàn lễ mi-sa, trong khi hành lễ ông không ngừng hôn những chỗ kín của cô. Cha Tournet bị tố ngủ với một cô gái ngay trên bàn thờ. Cha xứ Guibourg gù, 66 tuổi tự khai là giết một đứa trẻ trong một lễ mi-sa; con gái bà La Voisin xác nhận lời ông khai là đúng; bà Jeanne Chaufrain cũng xác nhận thế, bà là một trong ba tình nhân của người cha đạo này và có bảy con với ông. Có người xưng rằng ông cắt cổ một đứa bé trong một buổi lễ, rót máu vào chén thánh, xác thì cất đi vì còn lấy tim, ruột để làm một lễ khác.
Lời khai của nhiều người có vẻ là bịa đặt dựa theo những chuyện hoang đường trong dân gian. Trước khi bước lên dàn thiêu, bà thày bói La Fi- lastre thú thực rằng đã khai liều vì không chịu nổi tra tấn. Cảnh sát lại tin rằng bà phạm tội thật vì trong nhà bà có chứa thuốc độc, hình tượng nặn bằng sáp, những bùa chú để phá thai, những cây nến đen, những sách ma thuật. Cha Guibourg có nhiều giấy biên-lai nhận đã lấy những món tiền lớn. Bằng chứng cho thấy các bà quyền quí đã cầu khấn Satan.
Tháng 8 năm 1780 vua ra lệnh chấm dứt cuộc điều tra nhưng vì cảnh sát thấy có dấu tích bà Montespan can dự nên vua cho tiếp tục mà phải thật bí mật. Thì ra Đức Vua Rất Mộ Đạo Ki-tô bạc bẽo bỏ rơi bà để đi theo cô Fontanges, bà muốn đánh thuốc độc giết kẻ tình phụ cùng người địch thủ đương tuổi xuân xanh và bà đã cầu xin Satan giúp sức.
Năm 1782 vụ án chấm dứt, tổng cộng 319 người bị bắt, 36 người bị giết, 4 người bị khổ sai, 34 người bị đi đày, không một người quí tộc nào bị tra tấn hay bị hành hình. Vua sợ sau khi mình nằm xuống, người đời lôi vụ án ra xoi bói, năm 1709 ban lệnh đốt hết hồ-sơ (Robbins, trang 80), nhưng một số bản sao và giấy tạp ghi đã lọt lại cho hậu thế soi gương.
Vụ án Phòng Nóng Bỏng phơi bày sự thật rằng ở nước Pháp, từ bình dân tới quí tộc đều cầu khấn quỉ Satan khi Giê-hô-va, Giê-su không được việc. Vua bắt cảnh sát giữ bí mật cuộc điều tra cốt để bảo vệ danh dự cho hoàng triều, song nhờ sự bí mật ấy các bị-can quyền quí đã không mất mạng. Nếu công khai điều tra, lòng tin Satan của quí tộc Pháp phơi ra ánh sáng trở thành một điều xỉ-nhục cho giáo hội Ca-tô, tòa thánh ắt đòi vua không được nương tay với họ.
Đó là một trong những vụ án cuối cùng của mấy trăm năm diệt phù thủy ở Âu-châu và cũng là mặt thật xã-hội của vương quốc mộ đạo nhất thế gian, trưởng nữ của giáo-hội Ca-tô thời Đức Vua Rất Mộ Đạo Ki-tô.
Giáo-sĩ Tachard đưa quân đội Pháp vào Xiêm, Pháp làm chủ giáo hội Ca-tô Việt-nam
Vua Narai nhiệt tình muốn đón luồng gió văn minh từ Tây phương thổi tới, bọn giáo sĩ Pháp ở Xiêm biết lắm nên họ cố dùng mọi mánh lới đem xứ ấy làm quà tặng nước họ. Giám mục Chappoulie viết tập nhì bộ sách kể trên trong thời giáo sĩ Pháp đày lòng tin tưởng vào sức mạnh của chế độ đế quốc, đã kiêu hãnh nói toạc ra rằng khuynh hướng tự nhiên của giáo sĩ Pháp là làm bộ hạ cho vua Pháp và vua Pháp chẳng thể có bộ hạ nào được việc hơn họ trong cuộc bành trướng thế lực chính trị sang Đông-phương (Chappoulie tập II, trang 99-100).
Bọn giáo sĩ Pháp dùng Phaulcon thúc đảy cho vua Narai tự nói ra việc cầu Pháp đến, quả nhiên vua làm như họ muốn, cử ba vị quan sang Âu-châu công cán. Tháng 8 năm 1681 đoàn sứ thần cùng giáo-sĩ Gayme xuống tàu Soleil d’Orient ở Bantam để vượt trùng dương. Chẳng biết nên nói là may hay rủi cho Lambert, ông nuôi mộng đích thân đưa sứ thần Xiêm đến Pháp nhưng ông qua đời ba tháng trước khi đoàn khởi hành, còn đoàn thì không bao giờ tới nơi tới chốn. Tàu mất tích ở ngoài khơi Madagascar. Người Pháp nghi ngờ rằng bàn tay phá hoại của Hòa-lan đã gây nên nông nỗi.
Vua Xiêm gửi một đoàn sứ thần nữa gồm hai vị quan sang Pháp công cán. Họ cùng với giáo sĩ Vachet xuống tàu tháng giêng năm 1684, tháng 11 tới Pháp. Vachet đưa họ đến cung điện Versailles ra mắt vua Louis đúng lúc vua đi qua Phòng Gương, một phòng khách lớn. Lambert đã giục giã triều đình Pháp từ trước, triều đình này đáp ứng, đã chuẩn bị đưa một toán giáo sĩ sang Xiêm và toán này sắp lên đường nên đoàn sứ thần Xiêm có tự nguyện mời người Pháp sang nước họ hay không thì cũng thế thôi. Giáo-sĩ Pháp ở Xiêm đã biết vua Narai coi rẻ đạo Giê-su, chỉ nhằm mục đích chính trị nhưng họ đã đem cho triều đình Pháp cảm tưởng sai lầm rằng nhà vua sẵn sàng bỏ đạo Phật để theo đạo họ. Triều đình Pháp bèn lấy việc đổi đạo vua Xiêm làm mục tiêu thứ nhất, vì họ tin rằng đầu xuôi ắt đuôi lọt, sau đó họ sẽ dễ dàng cầm đầu dân Xiêm.
Tháng ba năm 1685 sứ thần Pháp Chaumont dẫn một phái đoàn xuống tàu sang Xiêm, đoàn có sáu giáo sĩ chuyên về thiên văn, toán học và có năm giáo sĩ tuyên truyền; trong năm người này, một người là cha xứ Choisy, một người nữa rất lanh lợi là Guy Tachard, trước làm ăn ở Mỹ-châu. Vachet và hai sứ thần Xiêm cũng xuống tàu theo để về nước. Pháp gửi các nhà thiên văn dòng Tên đem theo dụng cụ cần thiết sang Viễn-đông để ganh đua với các nhà thiên văn cũng dòng Tên của các nước Tây-phương khác đã ở đó, như Adam Schall, một người Đức, ông này rất thành công tại Bắc-kinh.
Tàu cặp bến Cap ở Phi-châu, đoàn người được trưởng công-ti thương mại Hòa-lan tiếp đãi lịch sự. Tàu tới Batavia, họ gặp cha đạo Fuciti, ông này cũng như Ferreira bị hội Tuyên truyền đuổi khỏi đất Việt vì tội không chịu phục tùng phe Pháp, bơ vơ chưa tìm ra chỗ làm ăn. Chaumont thương tình cho ông lên tàu đi Xiêm. Tới Xiêm, Chaumont đưa lệnh vua Louis cho cha đạo Laneau biết là không được phép đòi các giáo sĩ dòng Tên cùng đi với ông thề theo sự đòi hỏi của hội Tuyên-truyền. Laneau yêu nước Pháp thế-gian hơn yêu thiên đàng, nể vua Louis hơn sợ giáo-hoàng, chịu tuân theo. Ngoảnh mặt sang Sở thì Tề giận, cuối năm 1686 ông bị hồng y Altieri hội Tuyên-truyền quở trách về lỗi miễn thề cho giáo sĩ.
Tới Ayouthia, Chaumont vỡ lẽ rằng việc vận động cho vua Narai đổi đạo là đáy biển mò kim, ông chán nản quay về nước. Trong thời gian ngắn ngủi ở Xiêm, giáo sĩ Tachard trở thành thân thiết với Phaulcon, nghĩa là trở thành có vai vế trong triều đình Xiêm. Nhân chuyến tàu Chaumont về nước, vua Narai gửi đoàn ngoại giao thứ ba sang Âu-châu công cán. Đoàn này khá đông và do Ta- chard làm hướng đạo. Tháng 6 năm 1686 tàu cặp bến Brest bên Pháp.
Tháng 9, vua Louis tiếp các sứ thần Xiêm trong một buổi lễ long trọng tại phòng Hòa-bình điện Versailles. Ở Paris, người ta trơ trẽn lôi mười hai thanh niên Xiêm trong phái đoàn ngoại-giao ra rửa tội mặc dù họ vùng vằng. Tachard thương thảo, triều đình Pháp quyết định gửi sang Xiêm một đội quân và 12 giáo sĩ dòng Tên chuyên về thiên văn, toán học. Vấn đề giáo sĩ thề hay không được đặt ra. Cuối cùng, tháng 2 năm 1687, trước khi xuống tàu ra đi, các giáo sĩ thề theo kiểu hội Tuyên-truyền, đồng thời Tachard và cả bọn ký một thư tỏ lòng trung thành với vua Pháp, luôn luôn tôn trọng quyền lợi của vua và tuân lệnh vua.
Trên tàu sang Xiêm có Simon de La Loubère là trưởng đoàn, có một giám đốc công-ti Đông Ấn-độ, có phái đoàn Xiêm trở về nước. Trong số 636 người trên tàu, 492 người là binh sĩ. Cuộc hành trình dài 6 tháng 27 ngày. Tới Xiêm, mười hai nhà thiên văn liền bắt tay vào việc vì sáu người trong nhóm trước đã sang Bắc-kinh.
Tháng giêng năm 1688, Tachard lại dẫn đầu một phái đoàn Xiêm nữa sang Pháp công cán, La Loubère cũng về nước, Phaulcon gửi theo hai người Việt phụ-giáo-sĩ do chính ông đài thọ phí tổn sang Roma, tất cả xuống tàu Gaillard. Tháng bảy, tàu tới Pháp. Tháng chín, khi Tachard cùng phái đoàn dời Paris sang Roma thì ở Viễn-đông Phaulcon bị người Xiêm giết.
Quân Pháp đến đóng ở Bangkok và Mergui khiến dân Xiêm bất bình phản đối. Một vị quan là Pitra-cha đứng lên đảo chính, bắt vua, gia đình vua và giết Phaulcon.Vua cũng chết mà không ai rõ vì sao chết. Quân Pháp chiếm toàn thể thành phố Bangkok nhưng quân Xiêm được quân Hòa-lan trợ lực đã thắng họ (Phan Phát Huồn, quyển I, trang 162). Kể từ đấy trở đi, nước Xiêm ngặt nghèo chống đạo Ca-tô trong một thế kỷ rưỡi.
Ngày 23 tháng 12 năm 1688 giáo hoàng Inno- cent XI long trọng tiếp phái đoàn Xiêm. Ông chưa biết vua Narai đã qua đời nên mừng phát khóc khi Tachard khoe rằng vị vua ấy đã cho dựng nhiều bàn thờ, nhiều nhà thờ Giê-hô-va. Trong một buổi ông tiếp riêng, Tachard thuật cảnh vô chủ của giáo hội Bắc-hà sau khi giáo sĩ phe Bồ bị hội Tuyên-truyền đuổi ra khỏi vùng ấy. Tachard dẫn hai người phụ-giáo-sĩ Việt đến trình ông bức thư của một số tín đồ Đàng Ngoài gửi cho ông. Ông gửi quà đáp lễ Phaulcon, vua Xiêm là những người đã tặng quà ông.
Tháng giêng năm 1689 ủy ban hồng-y ra sắc-lệnh hủy bỏ thể thức thề của hội Tuyên-truyền ngày trước, đồng thời cho phép trưởng dòng Tên gửi bốn giáo sĩ đến Việt-nam. Vụ bỏ lời thề thật vừa lòng vua Louis XIV. Tachard sang Pháp được triều đình cũng như các viên chức giáo hội niềm nở chào đón. Ông cùng những người có chức quyền ở Pháp ký kết với nhau một qui ước về cách cộng-tác giữa dòng Tên và hội Paris Truyền-giáo Quốc-ngoại. Dòng và hội này sẽ nhờ tổng-giám-mục Paris hòa giải khi có đụng độ, không xong thì mới tính nhờ tới Roma. Tàu Pháp nhận chở giáo sĩ đi làm ăn ở nơi xa.
Thế là dòng Tên không đếm xỉa tới Bồ-đào-nha, phe Pháp cũng chẳng cần đến hội Tuyên-truyền nữa, tòa tổng-giám-mục Paris nắm quyền của cả hai, Pháp đại thắng. Hội Paris Truyền-giáo Quốc-ngoại trở thành một thứ chủ trên đất Việt, lèo lái giáo hội Ca-tô ở đấy mãi đến thế kỷ 20 mới thôi.