Thứ Bảy, 22 tháng 12, 2012

Đi Tìm Một Phật Giáo Mỹ - Trí Tánh Đỗ Hữu Tài

Đi Tìm Một Phật Giáo Mỹ
Trí Tánh Đỗ Hữu Tài
14-Dec-2012

Chúng ta thường nghe các danh xưng “Phật giáo Tây Tạng”, “Phật giáo Tích Lan”, “Phật giáo Việt Nam”, “Phật giáo Nhật Bản”, … Tại Mỹ, theo thống kê của PEW Research Center (2007, và cập nhật 7/2012, thêm số liệu về Phật tử Mỹ gốc Á châu), có tất cả 4 triệu Phật tử, đứng thứ ba về số lượng tín đồ, sau Thiên Chúa giáo và Do Thái giáo; nhưng lại đứng đầu về tỷ lệ tăng trưởng, 170% mỗi năm.
Vậy thì, với 4 triệu tín đồ và 150 năm sau khi Phật giáo được du nhập vào Mỹ, chúng ta đã có một “Phật giáo Mỹ” chưa? Quá trình hình thành và diện mạo đặc thù của Phật giáo Mỹ là gì? Viên ngọc quý trong chéo áo của chàng cùng tử (da đỏ) “sắc nước hương trời” ra sao? Bài phát biểu dưới đây là những mô tả và quan điểm của một Phật tử Mỹ về chủ đề nầy. Ông đã quy y và tu học hơn 45 năm, và hiện đang dạy Tôn giáo học (Religious Studies) với chuyên ngành “Phật giáo Mỹ” (American Buddhism) tại hai đại học Penn State và USU ở bang Utah. – Trí Tánh

(Bản dịch từ Pursuing an American Buddhism, do ký giả Linda Heuman (Providence, RI) phỏng vấn học giả Phật học Charles Prebish - Bài đăng trên Tạp chí Tricycle - Số Spring 2012)
Các câu hỏi:
- Chúng ta đã thật có một Phật giáo Mỹ chưa ?
- Cái gì làm cho Phật giáo Mỹ có “tính Mỹ” một cách rạch ròi ?
- Vậy thì tiêu chuẩn để có thể nói “Bây giờ Tăng già đã hoàn toàn phát triển” là gì ?
- Tại sao ông nghĩ rằng Phật tử Mỹ quá nhấn mạnh đến hành Thiền ?
- Ông có thể mô tả quá trình phát triển của Phật giáo Mỹ trong bốn thập niên vừa qua không? Và ông có thấy những xu hướng mới nào không ?
- Hiện tượng “Lai Tông phái” nầy đã được triển khai như thế nào ?
- Trong quá trình phát triển của Phật giáo Mỹ, ông thấy có một tình trạng căng thẳng giữa các truyền thống khi họ muốn duy trì sự nguyên vẹn của tông phái nhưng phong trào hiện nay thì lại đang tiến về (một Phật giáo Mỹ) lai Tông phái hybridity không?
- Khi ta trộn những tông phái với lịch sử và bối cảnh thành hình khác nhau như vậy vào cái nồi nấu hổ lốn Mỹ (melting pot), liệu chúng có nguy cơ trộn lẫn với nhau thành một khối hổn hợp không? [Còn] nếu duy trì sự khác biệt giữa các tông môn thì tính nguyên vẹn vẫn có thể giữ được hay không?
- Nghiên cứu Phật học ở mức độ học thuật thì quan trọng như thế nào cho việc hành trì?
- Vào năm 1978, ông đã đề cập đến “hai Phật giáo” - Một do cộng đồng “Người Mỹ cải đạo thành Phật tử” và một do những cộng đồng di dân Á châu. Đến nay [2012], ông vẫn thấy như thế sao ?
- Vậy thì liệu ông có thể nói rằng những Phật tử cải đạo (convert Buddhists) sẽ học được đôi điều từ những cộng đồng Phật tử di dân Á châu không?
Giáo sư Charles Prebish có lẽ là người đã viếng thăm nhiều tu viện Phật giáo Mỹ hơn bất kỳ người nào khác tại Hoa Kỳ. Với những ai quen thuộc với hoạt động của ông, điều nầy chẳng có gì đáng ngạc nhiên vì ông là người đã đi tiên phong trong lãnh vực học thuật về Phật giáo Mỹ như một chuyên đề trong toàn bộ ngành nghiên cứu Phật học. Vào cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970, khi ông bắt đầu dạy đại học, nghiên cứu kinh viện về Phật giáo chủ yếu được coi như là nghiên cứu một đặc sản của văn hóa “Đông phương”. Lúc bấy giờ đang là một học giả trẻ, ông chuyên chú vào Phật giáo Ấn Độ buổi sơ kỳ, gồm lịch sử phát triển hệ thống tu viện và Luật Tạng Vinaya, vốn là những chủ đề nằm hoàn toàn trong lãnh vực nghiên cứu truyền thống về Phật học. Nhưng vào thập niên 1970, ông Prebish là một trong những học giả Phật học đầu tiên quan sát thấy rằng Đạo Phật nảy mầm thông qua con đường ngoại nhập vào Mỹ thì đang hình thành một diện mạo văn hóa đặc thù của nó, một diện mạo đáng quan sát và cần tìm hiểu. Thế là ông soạn giáo trình và mở lớp dạy đầu tiên về “Phật Giáo Mỹ” (American Buddhism) vào năm 1974 và xuất bản tác phẩm đầu tiên về chủ đề nầy vào năm 1979. Trong những thập niên sau đó, trong bối cảnh nở rộ của Đạo Phật tại Tây phương, ông đã theo dõi lộ trình tiến hóa nhanh chóng của hiện tượng nầy, ghi chép tiến bộ và đánh dấu các cột mốc của hiện tượng đó.
Hiện nay (12/2012), ông Charles Prebish là giáo sư danh dự (Emeritus Professor) về Tôn giáo học (Religious Studies) tại Đại học Tiểu bang Pennsylvania (PSU – Penn State) và Đại học Tiểu bang Utah (USU). Ông đã kể lại những trải nghiệm của ông về việc học đạo và tu chứng Đạo Phật tại Mỹ trong bốn thập niên vừa qua trong hồi ký mới đây của ông: “Cuộc đời của một Phật tử Mỹ” (An American Buddhist Life, Memoirs of a Modern Dharma Pioneer - The Sumarun Press, Inc., Canada, 2011)
Linda Heuman

Bìa sách của Charles Prebish
Nhiều người không thích dùng cụm từ “Phật giáo Mỹ”. Cuối tuần vừa rồi, [nữ học giả Phật học] Jan Willis nói rằng “Tôi không nghĩ rằng chúng ta đã có một Phật giáo Mỹ đâu”. Tuy tôi cũng đã từng nói như thế từ năm 1975, nhưng [ngay cả đến bây giờ] có lẽ bà ấy nói đúng; có lẽ chúng ta chưa có một Phật giáo Mỹ. Trước hết, chúng ta cần tất cả mọi truyền thống khác nhau của Phật giáo đến Mỹ một cách trọn vẹn - với những truyền thống, tông môn, nghi thức, vân vân … của họ. Rồi phải cần thời gian để những truyền thống nầy trở thành Mỹ một cách rạch ròi hầu chúng có thể hội nhập vào văn hóa Mỹ, làm cho Phật tử của truyền thống nầy có thể truyền thông được với Phật tử của truyền thống khác. Chúng ta cần kiên nhẫn. Rồi cuối cùng thế nào cũng xuất hiện một cái mà ta gọi là “Phật giáo Mỹ”. Nhưng điều nầy không có nghĩa là chúng ta sẽ có chỉ một “Thừa” (vehicle). Chúng ta sẽ vẫn có các môn phái, nhưng tôi nghĩ rằng chúng sẽ tương nhập với nhau hơn [1].
Người Mỹ thường thiếu kiên nhẫn. Chúng ta nghĩ rằng vì Phật giáo đã có mặt trên đất nước nầy 150 năm nên tất nhiên Phật giáo phải là hoàn toàn Mỹ rồi. Suy nghĩ nầy không lý đến sự kiện rằng ở Á châu, Phật giáo phải mất nhiều thế kỷ mới hoàn thành quy trình tiếp biến văn hóa (acculturation) khi tiếp cận với những vùng văn hóa khác nhau. Khi chuyển dịch từ Ấn Độ qua Trung Hoa, Phật giáo phải mất ít nhất 500 năm mới hoàn thành công trình Hán hóa. Vậy mà người Mỹ chúng ta lại mong Phật giáo sẽ trở thành Mỹ rất nhanh. Chúng ta phải chờ thôi.
Phật giáo Mỹ sẽ phải phản ánh những nguyên tắc dân chủ, trong cái nghĩa “tự do và công lý cho mọi người” [2]. Đó chính là những nguyên tắc hòa hợp trong Tăng đoàn - tính bình đẳng trong ý nghĩa tốt nhất của từ nầy. Hiểu Bồ Tát đạo trong một khung cảnh Mỹ thì phải gồm cả việc dấn thân vào xã hội - những hoạt động như nhà dưỡng lão, bảo vệ môi trường, hoằng pháp trong tù.
Phật giáo Mỹ còn phản ánh những giá trị mà chúng ta tìm được trong nền văn hóa của chúng ta, dù những giá trị nầy không phải luôn luôn có tính tích cực. Người Mỹ rất quan tâm đến chứng ngộ cho riêng cá nhân mình; trong Phật giáo Mỹ, Phật tử thường nhấn mạnh vai trò của Thiền hành trên tất cả những điều khác, ngay cả trên tư cách là thành viên của một cộng đồng Phật tử. Vì vậy mà Phật giáo Mỹ có thể sẽ bao gồm cả những người tự nhận là Phật tử nhưng thật ra không có quan hệ gì với cộng đồng Phật giáo hay với Tăng già cả. Nhưng về điểm nầy, tôi thấy chúng ta còn cần phải thảo luận thêm.
Ví dụ như trường hợp của tôi. Tôi quy y ở một trung tâm Phật giáo Nguyên Thủy, thường xuyên trao đổi với vị Sư Tây Tạng Chưgyam Trungpa Rinpoche, và vị giáo thọ riêng về Phật học của tôi là ông Richard Robinson. Nhưng tại Đại học Pennsylvania PSU, tôi chưa bao giờ gia nhập vào một cộng đồng (Phật tử) nào cả, cho nên trong 36 năm qua, tôi hành thiền một mình, tu tập một mình; tôi là Tăng đoàn một người. Đối với tôi, trạng huống đó đã là và đang là một tình trạng khó khăn vì tôi thiếu tinh thần cộng đồng, vốn thật sự giúp tôi xác định truyền thống Phật giáo mà tôi theo. Không có chỗ cho tôi đến và chia sẻ với những đồng đạo Phật tử khác. Có những điều thiếu sót mà ta có thể tìm ra được ở một cộng đồng Phật giáo Tây Tạng nào đó, hay nếu vào dịp cuối tuần, ta đi đến Thiền viện Zen Mountain Monastery ở New York [3] chẳng hạn, tham dự vào các chương trình sinh hoạt của họ, và tỉnh tọa trong Thiền đường rồi cùng ăn cơm với nhau. [Sự thiếu sót] nầy rất đáng ngại, vì loại ứng xử cộng đồng như vậy thì thật sự giúp chúng ta cũng cố tín tâm rất nhiều.
Học giả Phật học Michael Carrithers có viết một câu mà tôi luôn luôn ghi nhớ. Câu đó đại khái là “Không có Phật giáo nếu không có Tăng già, và không có Tăng già nếu không có Giới luật”. Như vậy, có thể nói rằng chúng ta vẫn đang mong muốn có một Phật giáo Mỹ tại vì Tăng già chưa được thật sự phát triển hoàn chỉnh tại Mỹ, dù bây giờ rõ ràng đã tiến bộ rất nhiều so với năm 1975 chẳng hạn, khi tôi bắt đầu nghiên cứu về Phật giáo Mỹ.
Một sự phát triển hoàn chỉnh của Tăng già thì không dễ dàng như ta tưởng, vì từ Tăng già mang một nội hàm phức tạp hơn ta nghĩ. Trong truyên thống sơ kỳ của Phật giáo, khi Đức Phật dùng từ Tăng già, Ngài chỉ muốn nói đến các Tỳ kheo mà thôi. Nhưng rồi theo thời gian, Tăng già được biết đến như Tứ chúng gồm tất cả mọi Phật tử: Tăng, Ni, nam Phật tử và nữ Phật tử. Như vậy, ta có thể nói rằng Tăng già đã có đó, chỉ có điều chưa hoàn toàn phát triển mà thôi.
Chúng ta sẽ cần một hệ thống kinh sách đầy đủ và kết cấu hơn. Truyền thống Phật giáo luôn nhấn mạnh rằng học và hành đi với nhau; cả hai tương nhập với nhau. Và vì học đạo và hành đạo tương nhập nên càng học thì càng hiểu sự phức tạp và các sắc thái của Phật pháp, từ đó, hành đạo càng trở nên tinh vi và sâu sắc. Và khi mà ta hành đạo có chiều sâu, ta sẽ có khả năng hiểu được giáo pháp một cách tinh tế hơn. Học và hành, do đó, vận động đối đãi qua lại. Tôi nghĩ rằng nhiều cộng đồng Phật giáo tại Mỹ hình như chưa đạt được điều nầy. Và chúng ta cũng cần một Phật giáo hoàn chỉnh, nhấn mạnh đến thực hành hơn là chỉ theo truyền thống ngồi Thiền.
Khi có người nói đến thực hành Phật pháp, tôi nghĩ rằng nhiều khi họ không ý thức được rằng Phật pháp là một hệ thống tôn giáo toàn diện. Nó không chỉ có nghĩa là ngồi trên bồ đoàn và tập trung theo dõi hơi thở. Phật giáo là một sự thực hành suốt đời.
Khi tôi quy y vào năm 1965, tôi không biết nhiều về Phật giáo, nhưng tôi biết rằng tôi muốn học ngồi Thiền. Sư phụ tôi bảo rằng “Nếu con muốn ta dạy Thiền cho con thì con phải ngồi Thiền bốn giờ mỗi ngày, và ngồi suốt ngày chủ nhật”. Tôi bắt đầu ngồi Thiền như thế từ năm 1965, và tiếp tục cho đến năm 1974, khi tôi gặp vị Sư Tây Tạng Chưgyam Trungpa Rinpoche. Tôi đã thực hành điều mà tôi nghĩ là đúng theo truyền thống Phật giáo tốt nhất tại Mỹ lúc bấy giờ. Nhưng trong buổi gặp gở đầu tiên với vị Sư Tây Tạng nầy, chỉ trong 30 giây đầu tiên, Ngài bảo tôi rằng “Ta cần nói với con về cách hành trì của con”. Cho đến nay, tôi vẫn không biết vì sao Ngài lại biết được cách hành trì của tôi, tại vì không có cách nào Ngài có thể biết đươc. Nhưng Ngài đã nói với tôi rằng “Ta biết rằng con đã từng ngồi Thiền bốn giờ mỗi ngày. Và ta cũng biết rằng trong bốn tiếng đồng hồ đó, con đã chủ yếu rời bỏ thế giới để trốn vào trong sự yên tĩnh của cái đầu của con, hầu vận dụng những điều mà con nghĩ là của Phật giáo. Ta muốn con đừng ngồi như thế nữa”. Lời vị Sư Tây Tạng thật như một cú đá vào mông của tôi.
Ngài giải thích rằng tôi đã đóng được rất chặt cánh cửa liên thông với thế giới. Tôi cho rằng tôi đã tỉnh thức và quán sát được hơi thở, thân thể và cảm xúc của mình. Điều nầy có thể đã xảy ra thật như thế, nhưng tôi đã hành trì như vậy trong một khoảng trống rỗng hoàn toàn, không có sự tham dự của con người Phật tử của tôi trong thế giới. Ngài bảo tôi hãy đem những điều tôi học được trong lúc hành trì, những giá trị của Đạo Phật, rời bồ đoàn và bước vào cuộc sống. Và ngài nói với tôi một cách rõ ràng rằng “Thỉnh thoảng, sẽ có lúc con mất tín tâm vào Phật giáo. Những lúc đó là lúc con lại cần ngồi xuống bồ đoàn, thanh thản không vướng mắc, và tái xác quyết cam kết của con với Giáo pháp”. Lời của Ngài quả thật là một bước ngoặt trong đời tôi.
Tôi mong rằng tôi đã hiểu và thọ trì từ lâu điều mà Stephen Batchelor [4] gọi là “trì giới chính là tu tập” (precepts as practice) vì những giới căn bản của một cư sĩ Phật tử - không sát sinh, không nói dối, không trộm cắp, không dùng chất làm say, và không tà dâm - thì không phải chỉ giữ gìn trong 30 phút hay một giờ trên bồ đoàn. Đó là những giới mà ta phải giữ mọi lúc mọi nơi với tư cách là một Phật tử sống trong một nước Mỹ hiện đại. Và với những cam kết đó, khi ta đi vào đời với ý thức rằng chúng là kết quả của công phu trì giới, thì ta đã đạt được một chứng nghiệm Phật giáo quân bằng và tròn đầy mà tôi nghĩ rằng sẽ mang đến một sự trưởng thành và chuyên chú trong vốn sống tôn giáo của đời ta. Thêm vào đó, thỉnh thoảng ta nên tham dự các nghi lễ tại các công đồng Phật giáo. Tôi nghĩ rằng nhiều người đã đánh giá thấp những nghi lễ. Họ không muốn dính líu gì đến các nghi lễ. Nhưng nếu ta hành lễ một cách đúng đắn, thì ta thật sự đang hành Thiền đấy. Hành lễ là bảo tồn truyền thống một cách thấm thía đến tận đáy lòng.
Khi tôi bắt đầu đến với Đạo Phật, chúng tôi đã đề cập đến Phật giáo Mỹ và tự hỏi liệu có một thực thể như thế không? Điều nầy rõ ràng đã được triển khai đến một lúc mà chúng tôi nhận ra rằng có một Phật giáo với hình thức Tây phương rõ rệt. Nhưng bây giờ thì chính điều đó cũng là quá khứ rồi. Khi tôi mới bắt đầu nghiên cứu Phật giáo Mỹ, chúng tôi dùng điện thoại. Hôm nay chúng ta có Internet. Những cộng đồng Phật giáo khắp nơi ở Bắc Mỹ và trên toàn thế giới thì được nối mạng (networked) với nhau đến độ tôi phải bắt đầu dùng cụm từ “đối thoại Phật giáo toàn cầu” (global Buddhist dialogue) để nói đến một Phật giáo toàn thế giới thay vì chỉ Phật giáo Á châu, Phật giáo Âu châu hay Phật giáo Mỹ. Phật giáo Tây phương càng lúc càng trở thành một bộ phận của Phật giáo toàn cầu.
Trong thập niên 1970s và ngay cả 1980s cũng như đầu thập niên 1990s, mỗi nhóm Phật tử thì chỉ theo một truyền thống Phật giáo rõ rệt. Ngày nay, khá nhiều cộng đồng Phật giáo phối hợp từng mảng nhỏ các truyền thống Phật giáo khác nhau thành một hình thức tu tập hiệu quả cho họ. Ví dụ như ta thấy có nhóm lấy một ít nội dung và phương pháp hành trì vừa của Thiền tông vừa của Phật giáo Nguyên Thủy. Vài học giả gọi hiện tượng nầy là “lai tông phái” (hybridity) [5].
Vào cuối thế kỹ thứ 20, chúng ta thấy hiện diện tại Mỹ mọi tông phái của tất cả các truyền thống Phật giáo (Nguyên Thủy, Phát triển, Mật Tông, …) cũng như tất cả Phật giáo theo văn hóa chủng tộc (Phật giáo Nhật Bản, Tích Lan, Trung Hoa, Tây Tạng, …). Họ đã gặp gỡ nhau, và trong quá trình giao tiếp đó, họ tôn trọng nhau vì cùng chia sẻ những truyền thống của Đức Phật. Đã có vài nhóm quốc tế được tổ chức ra chỉ để dứt khoát làm chuyện nầy - như Hội đồng Tăng già Phật giáo tại Nam California (Buddhist Sangha Council of Southern California) hay Ủy hội Phật tử Mỹ (ABC: American Buddhist Congress). Và tuy họ chưa thành công như ý muốn, nhưng ít nhất họ cũng đã khởi động việc tập họp Phật tử lại để thảo luận với nhau.
Có một ví dụ rất rõ ràng về tình trạng “Lai Tông phái” hybridity nầy mà tôi được chứng kiến khoảng ba năm trước đây, khi tôi trở lại Cleveland, bang Ohio, để tham dự một buổi họp mặt ái hữu của một người đồng nghiệp. Khi tôi bắt đầu nghiên cứu Phật giáo Mỹ, tổ chức Những Giáo hội Phật giáo tại Mỹ (BCA: Buddhist Churches of America) – Jodo Shinshu Buddhism – là một tổ chức mà đa số Phật tử là người Mỹ gốc Á châu. Và cũng có vài nhóm Thiền tông với các Thiền đường ở Cleveland mà họ chẳng quan hệ gì với cộng đồng Phật tử Mỹ gốc Á cả. Khi tôi trở lại Cleveland, tôi thấy hai nhóm nầy đã chia sẻ với nhau một ngôi chùa mà họ gọi là Chùa Phật giáo Cleveland. Có khi, họ gọi đó là “Zen Shin Sangha”. Khi họ đăng ký tông phái thì họ dùng cụm từ “Japanese Zen/Shin Buddhism”. Vị sư Trưởng giáo thọ là người Nhật và họ là thành viên của Những Giáo hội Phật giáo tại Mỹ (BCA). Như vậy, họ bắt đầu tiếp xúc với nhau. Và kết quả là ý niệm “Lai Tông phái” được mang ra để đề nghị với những Phật tử dù họ thuộc về những tông phái Phật giáo rõ ràng khác nhau. Thiền tông không bắt buộc phải hoàn toàn xa lạ với Hoa Nghiêm tông và họ có thể học hỏi lẫn nhau và chia sẻ với nhau như những Phật tử, dù tông phái, chủng tộc và tư cách thành viên của những tổ chức có khác nhau chăng. Kết quả là Phật tử càng lúc càng học hỏi về nhau.
Chúng ta nên nhớ rằng một cái “ấn” trong Tam Pháp ấn là Vô thường. Mọi vật đều thay đổi theo thời gian. Nếu ta khảo sát lịch sử phát triển Phật giáo thời sơ kỳ ở Ấn Độ, ta sẽ thấy rằng những truyền thống ban đầu, nhiều lúc gọi chung là Phật giáo Nikaya [6], có đến 18 bộ phái. Vậy thì [ngay từ thời đó] cũng đã có nhiều ý nghĩ khác nhau về Phật giáo. Tại sao? Tại vì khi Phật giáo lưu chuyển từ cộng đồng nầy đến cộng đồng khác, những vị đại sư phải sống trong các khu vực với tập tục khác nhau: Người dân ăn mặc khác, cư xử khác và suy nghĩ khác. Và vì vậy, vài bộ phái nầy đã triển khai [những giáo thuyết] phản ánh không phải sự khác biệt về học thuyết giữa các cộng đồng Phật giáo (dù đôi khi cũng có) mà phản ánh sự khác biệt giữa cách thế sống và giá trị [văn hóa] của các cộng đồng khác nhau. Và đó là lý do vì sao Phật tử đã tách rời nhau. Dĩ nhiên, trong số 18 bộ phái Nikaya đó, chỉ có một bộ phái tồn tại cho đến ngày nay - Phật giáo Nguyên Thủy (“Tiểu Thừa”). Nhưng điều nầy cũng đúng cho Phật giáo Phát Triển (“Đại Thừa”). Khi Phật giáo Phát Triển mở mang rộng ra, họ cũng tách ra thành nhiều bộ phái. Điều tất nhiên là những bộ phái nào tồn tại được trong thế giới hiện đại thì phải rất kiên trì. Khi những tông phái nầy đến Mỹ, ta có thể tin chắc rằng các tông phái đó lại sẽ thay đổi. Có thể trong thế kỷ 21 nầy, ta có thể thấy vài tông phái trở thành “tông Bắc Mỹ” một cách rạch ròi.
Theo một cách riêng, tôi muốn thấy mỗi truyền thống Phật giáo duy trì sự toàn vẹn của riêng họ, nhưng tôi cũng hiểu rằng, dù sao, chúng ta cần quan tâm đến cứu cánh của Phật giáo là gì – là diệt trừ cái khổ của con người. Và tôi nghĩ rằng nếu có vài truyền thống kết hợp với nhau khiến cho con người tỉnh thức, thiện lành, có thể thoát ra khỏi nỗi khổ, có thể ra khỏi vòng luân hồi [nếu họ tu tập theo truyền thống Nguyên Thủy] hay [nếu họ tu theo truyền thống Đại Thừa] thì phát tâm Bồ Tát cho đến khi tất cả chúng sinh được cứu độ, trong trường hợp như thế thì tôi nghĩ rằng thật quý giá. Nhiều khi, trong các cuộc tranh luận, chúng ta không ý thức được rằng cứu cánh của Phật giáo là đem mọi chúng sinh ra khỏi nỗi khổ và đưa đến tỉnh thức.
Truyền thống Phật giáo thưở ban đầu thường phân biệt hai loại Tăng sĩ. Một loại tu theo Minh Sát học (vipassana dhura), họ tu Thiền định, thường ẩn cư và/hoặc du hành trong rừng sâu. Một loại tu theo Kinh Điển học (gantha dhura), họ là những Tăng sĩ học thức, thường quanh quẩn trong làng mạc hay nơi thị tứ. Ta có thể xem họ là Tăng sĩ-học giả hơn là Tăng sĩ-hành giả [7]. Trên nhiều khía cạnh, Tăng sĩ-Hành giả là những người đã trao truyền Phật pháp cho cư sĩ trong làng mạc. Và khi ta hỏi Phật tử trong hai vị Thầy đó ai quan trọng nhất, thì thật là ngạc nhiên khi Phật tử trả lời là vị Thầy tu theo Kinh Điển, vì họ cho rằng nếu kinh điển (Pháp: Nhị bảo) biến mất thì sẽ không còn ai để mà Thiền định, và do đó cũng sẽ không còn Tu sĩ (Tăng: Tam bảo) nữa.
Trở về với thế giới Tây phương thời hiện đại, Hoa Kỳ chưa bao giờ có văn hóa tu viện, ngay cả với những truyền thống tôn giáo khác [như Thiên Chúa giáo chẳng hạn] . Người Mỹ không có xu hướng chối bỏ cuộc đời, và trong nước Mỹ hiện đại, có rất ít Tăng Ni. Nếu vậy thì ai sẽ là người đóng vai trò Tăng sĩ-Học giả cho Phật tử và cho những người muốn trở thành Phật tử? Từ đầu thập niên 1990, tôi đã cổ xúy rằng chính một vị học giả-hành giả sẽ là người đóng vai trò đó, vì họ đã có một phát nguyện riêng tư với đạo. Họ hành đạo, nhưng họ cũng có hiểu biết trí thức đến từ quá trình lấy Tiến sĩ trong ngành Phật học.
Lần đầu tiên khi tôi chế ra thuật ngữ “hai Phật giáo”, thuật ngữ đó đã rất chính xác; nhưng bây giờ thì không còn đúng nữa. Một học giả trẻ, ông Jeff Wilson, gần đây đã chỉ ra rằng chúng ta đã không thật sự nghiên cứu những khác biệt trong các cộng đồng Phật giáo Mỹ căn cứ trên vị trí địa dư của họ. Phật tử đồng quê (rural Buddhists) ở tiểu bang North Carolina thực hành Thiền định có thể rất khác với Thiền sinh ở San Francisco. Điều nầy thì đúng thật tuyệt đối, và không ai chịu điều tra hiện tượng nầy. Khoảng một năm trước đây, khi ông Wilson viết một tiểu luận về ý tưởng nầy, mà ông gọi là “chủ nghĩa địa phương”, tôi đã nói với ông ta là ông hoàn toàn đúng, nhưng mười năm nữa thì sao? [Vai trò của] Facebook và YouTube và Skype sẽ ra sao, có thể Phật tử ở New York sẽ hiểu biết Phật giáo đồng quê hơn bây giờ, và người sống ở bang Iowa hiểu biết về người thị tứ khác hơn bây giờ. “Chủ nghĩa địa phương” có thể sẽ chỉ còn là quá khứ. Và tôi liên hệ điều nầy với lý thuyết “hai Phật giáo” của tôi vì chính hiện tượng nầy cũng đã tác động lên [và làm thay đổi] lý thuyết của tôi.
Vâng. Ngược lại với những cộng đồng Phật tử Mỹ cải đạo, vốn chọn pháp môn mình thích nhất là Thiền định hay pháp môn nào mà họ nghĩ sẽ đạt đến trạng thái tỉnh thức nhanh nhất, cộng đồng Phật tử di dân Á châu hiểu rõ rằng tu tập là một phần của trải nghiệm cuộc sống. Đó là một sự tu tập mà ta chia sẻ với con cái. Đó là một sự tu tập mà ta mang theo khi ra khỏi chùa. Điều đó không có nghĩa là ta không hành Thiền, mà có nghĩa là cần hiểu rằng bối cảnh mà ta tu tập thì cần tương ứng với truyền thống tu tập và tông môn mà ta đã chọn. Tôi sẽ không muốn khuyến khích rằng tất cả Phật tử đổi đạo hãy nhảy ngay vào những phương pháp tu tập vốn là truyền thống của các pháp tu Á châu. Tôi chỉ muốn nói rằng các bạn hãy chọn pháp tu nào tốt nhất cho bạn, nhưng hãy chọn lựa [khi đã cứu xét] toàn diện và với tất cả sáng suốt.
Việt dịch và hình minh họa:
Trí Tánh Đỗ Hữu Tài
[Nguồn Anh ngữ: http://www.tricycle.com/feature/pursuing-american-buddhism]


GHI CHÚ (của người dịch):
[1] tương nhập /interpenetrating và tương tức/interbeing là hai thuật ngữ Phật học mô tả mối quan hệ (hay vận động) của vạn pháp trong Kinh Hoa Nghiêm / Avatamsakia Sutra.
[2] “Tự do và công lý cho mọi người” là dịch từ câu “liberty and justice for all” trong Lời thề Trung thành Pledge of Allegiance của công dân Mỹ nguyện trung thành với Quốc kỳ và nền Cọng hòa Mỹ.
[3] Xin xem đoạn phim The Story of Zen Mountain Monastery về đời sống tu tập và sinh hoạt hằng ngày trong một Thiền viện Mỹ: http://www.youtube.com/watch?v=LIYTXLOB7Jc
[4] Stephen Batchelor nguyên là một tăng sĩ người Anh, xuất gia theo cả hai truyền thống Mật tông (ở Dharamsala, Ấn Độ, 1974) và Thiền tông (ở Songgwangsa, Hàn Quốc, 1981). Nhưng sau đó, ông xuất tu và trở thành một học giả, giáo sư và tác giả của nhiều cuốn sách nỗi tiếng về Phật học. http://en.wikipedia.org/wiki/Stephen_Batchelor_(author)
[5] Từ “hybrid” của tiếng Anh nghĩa là “lai giống”, “lai chủng loại”, được dùng đầu tiên trong lãnh vực Sinh học. Sau đó, được dùng trong các lãnh vực khác và không còn mang nguyên nghĩa là lai “giống” nữa. ( http://en.wikipedia.org/wiki/Hybrid ). Tiếng Việt hình như chưa có từ để dịch chữ “hybrid”. Thường thường, tiếng Việt ghép những thành tố tạo ra tình trạng “lai” nầy, ví dụ như “Thiền-Tịnh song tu”, “xe hơi điện-xăng” (hybrid car).
[6] Theo giáo sư Robert Thurman (Buddism Studies – Columbia U), tên gọi “Phật giáo Nikaya” là do giáo sư Maatoshi Nagatomi của Đại học Harvard sáng chế ra như một cách thế để tránh dùng thuật ngữ Tiểu Thừa.
[7] “Các hệ thống tu tập để phát triển Trí huệ đó ngày nay được biết đến dưới các từ ngữ chuyên môn là Vipassana dhura, Minh Sát học. Danh từ Vipassana dhura, Minh Sát học, đối ngược với danh từ Gantha dhura, Kinh Điển học, cả hai ngành nầy ngày nay được xem như hai phương diện của sự tập luyện và bổ túc cho nhau. Minh Sát học là môn học hướng nội, thu hẹp chặt vào sự huấn luyện tâm linh, chẳng màng đến kinh sách. Cả hai danh từ, Vipassana dhura và Gantha dhura, đều chẳng thấy ghi trong Tam Tạng Kinh Điển; cả hai đều được nói đến trong kinh sách về sau” Theo http://www.dhammatalks.net/Vietnamese/Buddhadasa_Bhikkhu_Thu_ban_cho_nhon_loai.htm]
Đi Tìm Mt Pht Giáo Mỹ
Trí Tánh Đỗ Hữu Tài
14-Dec-2012

Chúng ta thường nghe các danh xưng “Phật giáo Tây Tạng”, “Phật giáo Tích Lan”, “Phật giáo Việt Nam”, “Phật giáo Nhật Bản”, … Tại Mỹ, theo thống kê của PEW Research Center (2007, và cập nhật 7/2012, thêm số liệu về Phật tử Mỹ gốc Á châu), có tất cả 4 triệu Phật tử, đứng thứ ba về số lượng tín đồ, sau Thiên Chúa giáo và Do Thái giáo; nhưng lại đứng đầu về tỷ lệ tăng trưởng, 170% mỗi năm.
Vậy thì, với 4 triệu tín đồ và 150 năm sau khi Phật giáo được du nhập vào Mỹ, chúng ta đã có một “Phật giáo Mỹ” chưa? Quá trình hình thành và diện mạo đặc thù của Phật giáo Mỹ là gì? Viên ngọc quý trong chéo áo của chàng cùng tử (da đỏ) “sắc nước hương trời” ra sao? Bài phát biểu dưới đây là những mô tả và quan điểm của một Phật tử Mỹ về chủ đề nầy. Ông đã quy y và tu học hơn 45 năm, và hiện đang dạy Tôn giáo học (Religious Studies) với chuyên ngành “Phật giáo Mỹ” (American Buddhism) tại hai đại học Penn State và USU ở bang Utah. – Trí Tánh

(Bản dịch từ Pursuing an American Buddhism, do ký giả Linda Heuman (Providence, RI) phỏng vấn học giả Phật học Charles Prebish - Bài đăng trên Tạp chí Tricycle - Số Spring 2012)
Các câu hỏi:
- Chúng ta đã thật có một Phật giáo Mỹ chưa ?
- Cái gì làm cho Phật giáo Mỹ có “tính Mỹ” một cách rạch ròi ?
- Vậy thì tiêu chuẩn để có thể nói “Bây giờ Tăng già đã hoàn toàn phát triển” là gì ?
- Tại sao ông nghĩ rằng Phật tử Mỹ quá nhấn mạnh đến hành Thiền ?
- Ông có thể mô tả quá trình phát triển của Phật giáo Mỹ trong bốn thập niên vừa qua không? Và ông có thấy những xu hướng mới nào không ?
- Hiện tượng “Lai Tông phái” nầy đã được triển khai như thế nào ?
- Trong quá trình phát triển của Phật giáo Mỹ, ông thấy có một tình trạng căng thẳng giữa các truyền thống khi họ muốn duy trì sự nguyên vẹn của tông phái nhưng phong trào hiện nay thì lại đang tiến về (một Phật giáo Mỹ) lai Tông phái hybridity không?
- Khi ta trộn những tông phái với lịch sử và bối cảnh thành hình khác nhau như vậy vào cái nồi nấu hổ lốn Mỹ (melting pot), liệu chúng có nguy cơ trộn lẫn với nhau thành một khối hổn hợp không? [Còn] nếu duy trì sự khác biệt giữa các tông môn thì tính nguyên vẹn vẫn có thể giữ được hay không?
- Nghiên cứu Phật học ở mức độ học thuật thì quan trọng như thế nào cho việc hành trì?
- Vào năm 1978, ông đã đề cập đến “hai Phật giáo” - Một do cộng đồng “Người Mỹ cải đạo thành Phật tử” và một do những cộng đồng di dân Á châu. Đến nay [2012], ông vẫn thấy như thế sao ?
- Vậy thì liệu ông có thể nói rằng những Phật tử cải đạo (convert Buddhists) sẽ học được đôi điều từ những cộng đồng Phật tử di dân Á châu không?
Giáo sư Charles Prebish có lẽ là người đã viếng thăm nhiều tu viện Phật giáo Mỹ hơn bất kỳ người nào khác tại Hoa Kỳ. Với những ai quen thuộc với hoạt động của ông, điều nầy chẳng có gì đáng ngạc nhiên vì ông là người đã đi tiên phong trong lãnh vực học thuật về Phật giáo Mỹ như một chuyên đề trong toàn bộ ngành nghiên cứu Phật học. Vào cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970, khi ông bắt đầu dạy đại học, nghiên cứu kinh viện về Phật giáo chủ yếu được coi như là nghiên cứu một đặc sản của văn hóa “Đông phương”. Lúc bấy giờ đang là một học giả trẻ, ông chuyên chú vào Phật giáo Ấn Độ buổi sơ kỳ, gồm lịch sử phát triển hệ thống tu viện và Luật Tạng Vinaya, vốn là những chủ đề nằm hoàn toàn trong lãnh vực nghiên cứu truyền thống về Phật học. Nhưng vào thập niên 1970, ông Prebish là một trong những học giả Phật học đầu tiên quan sát thấy rằng Đạo Phật nảy mầm thông qua con đường ngoại nhập vào Mỹ thì đang hình thành một diện mạo văn hóa đặc thù của nó, một diện mạo đáng quan sát và cần tìm hiểu. Thế là ông soạn giáo trình và mở lớp dạy đầu tiên về “Phật Giáo Mỹ” (American Buddhism) vào năm 1974 và xuất bản tác phẩm đầu tiên về chủ đề nầy vào năm 1979. Trong những thập niên sau đó, trong bối cảnh nở rộ của Đạo Phật tại Tây phương, ông đã theo dõi lộ trình tiến hóa nhanh chóng của hiện tượng nầy, ghi chép tiến bộ và đánh dấu các cột mốc của hiện tượng đó.
Hiện nay (12/2012), ông Charles Prebish là giáo sư danh dự (Emeritus Professor) về Tôn giáo học (Religious Studies) tại Đại học Tiểu bang Pennsylvania (PSU – Penn State) và Đại học Tiểu bang Utah (USU). Ông đã kể lại những trải nghiệm của ông về việc học đạo và tu chứng Đạo Phật tại Mỹ trong bốn thập niên vừa qua trong hồi ký mới đây của ông: “Cuộc đời của một Phật tử Mỹ” (An American Buddhist Life, Memoirs of a Modern Dharma Pioneer - The Sumarun Press, Inc., Canada, 2011)
Linda Heuman

Bìa sách của Charles Prebish
Nhiều người không thích dùng cụm từ “Phật giáo Mỹ”. Cuối tuần vừa rồi, [nữ học giả Phật học] Jan Willis nói rằng “Tôi không nghĩ rằng chúng ta đã có một Phật giáo Mỹ đâu”. Tuy tôi cũng đã từng nói như thế từ năm 1975, nhưng [ngay cả đến bây giờ] có lẽ bà ấy nói đúng; có lẽ chúng ta chưa có một Phật giáo Mỹ. Trước hết, chúng ta cần tất cả mọi truyền thống khác nhau của Phật giáo đến Mỹ một cách trọn vẹn - với những truyền thống, tông môn, nghi thức, vân vân … của họ. Rồi phải cần thời gian để những truyền thống nầy trở thành Mỹ một cách rạch ròi hầu chúng có thể hội nhập vào văn hóa Mỹ, làm cho Phật tử của truyền thống nầy có thể truyền thông được với Phật tử của truyền thống khác. Chúng ta cần kiên nhẫn. Rồi cuối cùng thế nào cũng xuất hiện một cái mà ta gọi là “Phật giáo Mỹ”. Nhưng điều nầy không có nghĩa là chúng ta sẽ có chỉ một “Thừa” (vehicle). Chúng ta sẽ vẫn có các môn phái, nhưng tôi nghĩ rằng chúng sẽ tương nhập với nhau hơn [1].
Người Mỹ thường thiếu kiên nhẫn. Chúng ta nghĩ rằng vì Phật giáo đã có mặt trên đất nước nầy 150 năm nên tất nhiên Phật giáo phải là hoàn toàn Mỹ rồi. Suy nghĩ nầy không lý đến sự kiện rằng ở Á châu, Phật giáo phải mất nhiều thế kỷ mới hoàn thành quy trình tiếp biến văn hóa (acculturation) khi tiếp cận với những vùng văn hóa khác nhau. Khi chuyển dịch từ Ấn Độ qua Trung Hoa, Phật giáo phải mất ít nhất 500 năm mới hoàn thành công trình Hán hóa. Vậy mà người Mỹ chúng ta lại mong Phật giáo sẽ trở thành Mỹ rất nhanh. Chúng ta phải chờ thôi.
Phật giáo Mỹ sẽ phải phản ánh những nguyên tắc dân chủ, trong cái nghĩa “tự do và công lý cho mọi người” [2]. Đó chính là những nguyên tắc hòa hợp trong Tăng đoàn - tính bình đẳng trong ý nghĩa tốt nhất của từ nầy. Hiểu Bồ Tát đạo trong một khung cảnh Mỹ thì phải gồm cả việc dấn thân vào xã hội - những hoạt động như nhà dưỡng lão, bảo vệ môi trường, hoằng pháp trong tù.
Phật giáo Mỹ còn phản ánh những giá trị mà chúng ta tìm được trong nền văn hóa của chúng ta, dù những giá trị nầy không phải luôn luôn có tính tích cực. Người Mỹ rất quan tâm đến chứng ngộ cho riêng cá nhân mình; trong Phật giáo Mỹ, Phật tử thường nhấn mạnh vai trò của Thiền hành trên tất cả những điều khác, ngay cả trên tư cách là thành viên của một cộng đồng Phật tử. Vì vậy mà Phật giáo Mỹ có thể sẽ bao gồm cả những người tự nhận là Phật tử nhưng thật ra không có quan hệ gì với cộng đồng Phật giáo hay với Tăng già cả. Nhưng về điểm nầy, tôi thấy chúng ta còn cần phải thảo luận thêm.
Ví dụ như trường hợp của tôi. Tôi quy y ở một trung tâm Phật giáo Nguyên Thủy, thường xuyên trao đổi với vị Sư Tây Tạng Chưgyam Trungpa Rinpoche, và vị giáo thọ riêng về Phật học của tôi là ông Richard Robinson. Nhưng tại Đại học Pennsylvania PSU, tôi chưa bao giờ gia nhập vào một cộng đồng (Phật tử) nào cả, cho nên trong 36 năm qua, tôi hành thiền một mình, tu tập một mình; tôi là Tăng đoàn một người. Đối với tôi, trạng huống đó đã là và đang là một tình trạng khó khăn vì tôi thiếu tinh thần cộng đồng, vốn thật sự giúp tôi xác định truyền thống Phật giáo mà tôi theo. Không có chỗ cho tôi đến và chia sẻ với những đồng đạo Phật tử khác. Có những điều thiếu sót mà ta có thể tìm ra được ở một cộng đồng Phật giáo Tây Tạng nào đó, hay nếu vào dịp cuối tuần, ta đi đến Thiền viện Zen Mountain Monastery ở New York [3] chẳng hạn, tham dự vào các chương trình sinh hoạt của họ, và tỉnh tọa trong Thiền đường rồi cùng ăn cơm với nhau. [Sự thiếu sót] nầy rất đáng ngại, vì loại ứng xử cộng đồng như vậy thì thật sự giúp chúng ta cũng cố tín tâm rất nhiều.
Học giả Phật học Michael Carrithers có viết một câu mà tôi luôn luôn ghi nhớ. Câu đó đại khái là “Không có Phật giáo nếu không có Tăng già, và không có Tăng già nếu không có Giới luật”. Như vậy, có thể nói rằng chúng ta vẫn đang mong muốn có một Phật giáo Mỹ tại vì Tăng già chưa được thật sự phát triển hoàn chỉnh tại Mỹ, dù bây giờ rõ ràng đã tiến bộ rất nhiều so với năm 1975 chẳng hạn, khi tôi bắt đầu nghiên cứu về Phật giáo Mỹ.
Một sự phát triển hoàn chỉnh của Tăng già thì không dễ dàng như ta tưởng, vì từ Tăng già mang một nội hàm phức tạp hơn ta nghĩ. Trong truyên thống sơ kỳ của Phật giáo, khi Đức Phật dùng từ Tăng già, Ngài chỉ muốn nói đến các Tỳ kheo mà thôi. Nhưng rồi theo thời gian, Tăng già được biết đến như Tứ chúng gồm tất cả mọi Phật tử: Tăng, Ni, nam Phật tử và nữ Phật tử. Như vậy, ta có thể nói rằng Tăng già đã có đó, chỉ có điều chưa hoàn toàn phát triển mà thôi.
Chúng ta sẽ cần một hệ thống kinh sách đầy đủ và kết cấu hơn. Truyền thống Phật giáo luôn nhấn mạnh rằng học và hành đi với nhau; cả hai tương nhập với nhau. Và vì học đạo và hành đạo tương nhập nên càng học thì càng hiểu sự phức tạp và các sắc thái của Phật pháp, từ đó, hành đạo càng trở nên tinh vi và sâu sắc. Và khi mà ta hành đạo có chiều sâu, ta sẽ có khả năng hiểu được giáo pháp một cách tinh tế hơn. Học và hành, do đó, vận động đối đãi qua lại. Tôi nghĩ rằng nhiều cộng đồng Phật giáo tại Mỹ hình như chưa đạt được điều nầy. Và chúng ta cũng cần một Phật giáo hoàn chỉnh, nhấn mạnh đến thực hành hơn là chỉ theo truyền thống ngồi Thiền.
Khi có người nói đến thực hành Phật pháp, tôi nghĩ rằng nhiều khi họ không ý thức được rằng Phật pháp là một hệ thống tôn giáo toàn diện. Nó không chỉ có nghĩa là ngồi trên bồ đoàn và tập trung theo dõi hơi thở. Phật giáo là một sự thực hành suốt đời.
Khi tôi quy y vào năm 1965, tôi không biết nhiều về Phật giáo, nhưng tôi biết rằng tôi muốn học ngồi Thiền. Sư phụ tôi bảo rằng “Nếu con muốn ta dạy Thiền cho con thì con phải ngồi Thiền bốn giờ mỗi ngày, và ngồi suốt ngày chủ nhật”. Tôi bắt đầu ngồi Thiền như thế từ năm 1965, và tiếp tục cho đến năm 1974, khi tôi gặp vị Sư Tây Tạng Chưgyam Trungpa Rinpoche. Tôi đã thực hành điều mà tôi nghĩ là đúng theo truyền thống Phật giáo tốt nhất tại Mỹ lúc bấy giờ. Nhưng trong buổi gặp gở đầu tiên với vị Sư Tây Tạng nầy, chỉ trong 30 giây đầu tiên, Ngài bảo tôi rằng “Ta cần nói với con về cách hành trì của con”. Cho đến nay, tôi vẫn không biết vì sao Ngài lại biết được cách hành trì của tôi, tại vì không có cách nào Ngài có thể biết đươc. Nhưng Ngài đã nói với tôi rằng “Ta biết rằng con đã từng ngồi Thiền bốn giờ mỗi ngày. Và ta cũng biết rằng trong bốn tiếng đồng hồ đó, con đã chủ yếu rời bỏ thế giới để trốn vào trong sự yên tĩnh của cái đầu của con, hầu vận dụng những điều mà con nghĩ là của Phật giáo. Ta muốn con đừng ngồi như thế nữa”. Lời vị Sư Tây Tạng thật như một cú đá vào mông của tôi.
Ngài giải thích rằng tôi đã đóng được rất chặt cánh cửa liên thông với thế giới. Tôi cho rằng tôi đã tỉnh thức và quán sát được hơi thở, thân thể và cảm xúc của mình. Điều nầy có thể đã xảy ra thật như thế, nhưng tôi đã hành trì như vậy trong một khoảng trống rỗng hoàn toàn, không có sự tham dự của con người Phật tử của tôi trong thế giới. Ngài bảo tôi hãy đem những điều tôi học được trong lúc hành trì, những giá trị của Đạo Phật, rời bồ đoàn và bước vào cuộc sống. Và ngài nói với tôi một cách rõ ràng rằng “Thỉnh thoảng, sẽ có lúc con mất tín tâm vào Phật giáo. Những lúc đó là lúc con lại cần ngồi xuống bồ đoàn, thanh thản không vướng mắc, và tái xác quyết cam kết của con với Giáo pháp”. Lời của Ngài quả thật là một bước ngoặt trong đời tôi.
Tôi mong rằng tôi đã hiểu và thọ trì từ lâu điều mà Stephen Batchelor [4] gọi là “trì giới chính là tu tập” (precepts as practice) vì những giới căn bản của một cư sĩ Phật tử - không sát sinh, không nói dối, không trộm cắp, không dùng chất làm say, và không tà dâm - thì không phải chỉ giữ gìn trong 30 phút hay một giờ trên bồ đoàn. Đó là những giới mà ta phải giữ mọi lúc mọi nơi với tư cách là một Phật tử sống trong một nước Mỹ hiện đại. Và với những cam kết đó, khi ta đi vào đời với ý thức rằng chúng là kết quả của công phu trì giới, thì ta đã đạt được một chứng nghiệm Phật giáo quân bằng và tròn đầy mà tôi nghĩ rằng sẽ mang đến một sự trưởng thành và chuyên chú trong vốn sống tôn giáo của đời ta. Thêm vào đó, thỉnh thoảng ta nên tham dự các nghi lễ tại các công đồng Phật giáo. Tôi nghĩ rằng nhiều người đã đánh giá thấp những nghi lễ. Họ không muốn dính líu gì đến các nghi lễ. Nhưng nếu ta hành lễ một cách đúng đắn, thì ta thật sự đang hành Thiền đấy. Hành lễ là bảo tồn truyền thống một cách thấm thía đến tận đáy lòng.
Khi tôi bắt đầu đến với Đạo Phật, chúng tôi đã đề cập đến Phật giáo Mỹ và tự hỏi liệu có một thực thể như thế không? Điều nầy rõ ràng đã được triển khai đến một lúc mà chúng tôi nhận ra rằng có một Phật giáo với hình thức Tây phương rõ rệt. Nhưng bây giờ thì chính điều đó cũng là quá khứ rồi. Khi tôi mới bắt đầu nghiên cứu Phật giáo Mỹ, chúng tôi dùng điện thoại. Hôm nay chúng ta có Internet. Những cộng đồng Phật giáo khắp nơi ở Bắc Mỹ và trên toàn thế giới thì được nối mạng (networked) với nhau đến độ tôi phải bắt đầu dùng cụm từ “đối thoại Phật giáo toàn cầu” (global Buddhist dialogue) để nói đến một Phật giáo toàn thế giới thay vì chỉ Phật giáo Á châu, Phật giáo Âu châu hay Phật giáo Mỹ. Phật giáo Tây phương càng lúc càng trở thành một bộ phận của Phật giáo toàn cầu.
Trong thập niên 1970s và ngay cả 1980s cũng như đầu thập niên 1990s, mỗi nhóm Phật tử thì chỉ theo một truyền thống Phật giáo rõ rệt. Ngày nay, khá nhiều cộng đồng Phật giáo phối hợp từng mảng nhỏ các truyền thống Phật giáo khác nhau thành một hình thức tu tập hiệu quả cho họ. Ví dụ như ta thấy có nhóm lấy một ít nội dung và phương pháp hành trì vừa của Thiền tông vừa của Phật giáo Nguyên Thủy. Vài học giả gọi hiện tượng nầy là “lai tông phái” (hybridity) [5].
Vào cuối thế kỹ thứ 20, chúng ta thấy hiện diện tại Mỹ mọi tông phái của tất cả các truyền thống Phật giáo (Nguyên Thủy, Phát triển, Mật Tông, …) cũng như tất cả Phật giáo theo văn hóa chủng tộc (Phật giáo Nhật Bản, Tích Lan, Trung Hoa, Tây Tạng, …). Họ đã gặp gỡ nhau, và trong quá trình giao tiếp đó, họ tôn trọng nhau vì cùng chia sẻ những truyền thống của Đức Phật. Đã có vài nhóm quốc tế được tổ chức ra chỉ để dứt khoát làm chuyện nầy - như Hội đồng Tăng già Phật giáo tại Nam California (Buddhist Sangha Council of Southern California) hay Ủy hội Phật tử Mỹ (ABC: American Buddhist Congress). Và tuy họ chưa thành công như ý muốn, nhưng ít nhất họ cũng đã khởi động việc tập họp Phật tử lại để thảo luận với nhau.
Có một ví dụ rất rõ ràng về tình trạng “Lai Tông phái” hybridity nầy mà tôi được chứng kiến khoảng ba năm trước đây, khi tôi trở lại Cleveland, bang Ohio, để tham dự một buổi họp mặt ái hữu của một người đồng nghiệp. Khi tôi bắt đầu nghiên cứu Phật giáo Mỹ, tổ chức Những Giáo hội Phật giáo tại Mỹ (BCA: Buddhist Churches of America) – Jodo Shinshu Buddhism – là một tổ chức mà đa số Phật tử là người Mỹ gốc Á châu. Và cũng có vài nhóm Thiền tông với các Thiền đường ở Cleveland mà họ chẳng quan hệ gì với cộng đồng Phật tử Mỹ gốc Á cả. Khi tôi trở lại Cleveland, tôi thấy hai nhóm nầy đã chia sẻ với nhau một ngôi chùa mà họ gọi là Chùa Phật giáo Cleveland. Có khi, họ gọi đó là “Zen Shin Sangha”. Khi họ đăng ký tông phái thì họ dùng cụm từ “Japanese Zen/Shin Buddhism”. Vị sư Trưởng giáo thọ là người Nhật và họ là thành viên của Những Giáo hội Phật giáo tại Mỹ (BCA). Như vậy, họ bắt đầu tiếp xúc với nhau. Và kết quả là ý niệm “Lai Tông phái” được mang ra để đề nghị với những Phật tử dù họ thuộc về những tông phái Phật giáo rõ ràng khác nhau. Thiền tông không bắt buộc phải hoàn toàn xa lạ với Hoa Nghiêm tông và họ có thể học hỏi lẫn nhau và chia sẻ với nhau như những Phật tử, dù tông phái, chủng tộc và tư cách thành viên của những tổ chức có khác nhau chăng. Kết quả là Phật tử càng lúc càng học hỏi về nhau.
Chúng ta nên nhớ rằng một cái “ấn” trong Tam Pháp ấn là Vô thường. Mọi vật đều thay đổi theo thời gian. Nếu ta khảo sát lịch sử phát triển Phật giáo thời sơ kỳ ở Ấn Độ, ta sẽ thấy rằng những truyền thống ban đầu, nhiều lúc gọi chung là Phật giáo Nikaya [6], có đến 18 bộ phái. Vậy thì [ngay từ thời đó] cũng đã có nhiều ý nghĩ khác nhau về Phật giáo. Tại sao? Tại vì khi Phật giáo lưu chuyển từ cộng đồng nầy đến cộng đồng khác, những vị đại sư phải sống trong các khu vực với tập tục khác nhau: Người dân ăn mặc khác, cư xử khác và suy nghĩ khác. Và vì vậy, vài bộ phái nầy đã triển khai [những giáo thuyết] phản ánh không phải sự khác biệt về học thuyết giữa các cộng đồng Phật giáo (dù đôi khi cũng có) mà phản ánh sự khác biệt giữa cách thế sống và giá trị [văn hóa] của các cộng đồng khác nhau. Và đó là lý do vì sao Phật tử đã tách rời nhau. Dĩ nhiên, trong số 18 bộ phái Nikaya đó, chỉ có một bộ phái tồn tại cho đến ngày nay - Phật giáo Nguyên Thủy (“Tiểu Thừa”). Nhưng điều nầy cũng đúng cho Phật giáo Phát Triển (“Đại Thừa”). Khi Phật giáo Phát Triển mở mang rộng ra, họ cũng tách ra thành nhiều bộ phái. Điều tất nhiên là những bộ phái nào tồn tại được trong thế giới hiện đại thì phải rất kiên trì. Khi những tông phái nầy đến Mỹ, ta có thể tin chắc rằng các tông phái đó lại sẽ thay đổi. Có thể trong thế kỷ 21 nầy, ta có thể thấy vài tông phái trở thành “tông Bắc Mỹ” một cách rạch ròi.
Theo một cách riêng, tôi muốn thấy mỗi truyền thống Phật giáo duy trì sự toàn vẹn của riêng họ, nhưng tôi cũng hiểu rằng, dù sao, chúng ta cần quan tâm đến cứu cánh của Phật giáo là gì – là diệt trừ cái khổ của con người. Và tôi nghĩ rằng nếu có vài truyền thống kết hợp với nhau khiến cho con người tỉnh thức, thiện lành, có thể thoát ra khỏi nỗi khổ, có thể ra khỏi vòng luân hồi [nếu họ tu tập theo truyền thống Nguyên Thủy] hay [nếu họ tu theo truyền thống Đại Thừa] thì phát tâm Bồ Tát cho đến khi tất cả chúng sinh được cứu độ, trong trường hợp như thế thì tôi nghĩ rằng thật quý giá. Nhiều khi, trong các cuộc tranh luận, chúng ta không ý thức được rằng cứu cánh của Phật giáo là đem mọi chúng sinh ra khỏi nỗi khổ và đưa đến tỉnh thức.
Truyền thống Phật giáo thưở ban đầu thường phân biệt hai loại Tăng sĩ. Một loại tu theo Minh Sát học (vipassana dhura), họ tu Thiền định, thường ẩn cư và/hoặc du hành trong rừng sâu. Một loại tu theo Kinh Điển học (gantha dhura), họ là những Tăng sĩ học thức, thường quanh quẩn trong làng mạc hay nơi thị tứ. Ta có thể xem họ là Tăng sĩ-học giả hơn là Tăng sĩ-hành giả [7]. Trên nhiều khía cạnh, Tăng sĩ-Hành giả là những người đã trao truyền Phật pháp cho cư sĩ trong làng mạc. Và khi ta hỏi Phật tử trong hai vị Thầy đó ai quan trọng nhất, thì thật là ngạc nhiên khi Phật tử trả lời là vị Thầy tu theo Kinh Điển, vì họ cho rằng nếu kinh điển (Pháp: Nhị bảo) biến mất thì sẽ không còn ai để mà Thiền định, và do đó cũng sẽ không còn Tu sĩ (Tăng: Tam bảo) nữa.
Trở về với thế giới Tây phương thời hiện đại, Hoa Kỳ chưa bao giờ có văn hóa tu viện, ngay cả với những truyền thống tôn giáo khác [như Thiên Chúa giáo chẳng hạn] . Người Mỹ không có xu hướng chối bỏ cuộc đời, và trong nước Mỹ hiện đại, có rất ít Tăng Ni. Nếu vậy thì ai sẽ là người đóng vai trò Tăng sĩ-Học giả cho Phật tử và cho những người muốn trở thành Phật tử? Từ đầu thập niên 1990, tôi đã cổ xúy rằng chính một vị học giả-hành giả sẽ là người đóng vai trò đó, vì họ đã có một phát nguyện riêng tư với đạo. Họ hành đạo, nhưng họ cũng có hiểu biết trí thức đến từ quá trình lấy Tiến sĩ trong ngành Phật học.
Lần đầu tiên khi tôi chế ra thuật ngữ “hai Phật giáo”, thuật ngữ đó đã rất chính xác; nhưng bây giờ thì không còn đúng nữa. Một học giả trẻ, ông Jeff Wilson, gần đây đã chỉ ra rằng chúng ta đã không thật sự nghiên cứu những khác biệt trong các cộng đồng Phật giáo Mỹ căn cứ trên vị trí địa dư của họ. Phật tử đồng quê (rural Buddhists) ở tiểu bang North Carolina thực hành Thiền định có thể rất khác với Thiền sinh ở San Francisco. Điều nầy thì đúng thật tuyệt đối, và không ai chịu điều tra hiện tượng nầy. Khoảng một năm trước đây, khi ông Wilson viết một tiểu luận về ý tưởng nầy, mà ông gọi là “chủ nghĩa địa phương”, tôi đã nói với ông ta là ông hoàn toàn đúng, nhưng mười năm nữa thì sao? [Vai trò của] Facebook và YouTube và Skype sẽ ra sao, có thể Phật tử ở New York sẽ hiểu biết Phật giáo đồng quê hơn bây giờ, và người sống ở bang Iowa hiểu biết về người thị tứ khác hơn bây giờ. “Chủ nghĩa địa phương” có thể sẽ chỉ còn là quá khứ. Và tôi liên hệ điều nầy với lý thuyết “hai Phật giáo” của tôi vì chính hiện tượng nầy cũng đã tác động lên [và làm thay đổi] lý thuyết của tôi.
Vâng. Ngược lại với những cộng đồng Phật tử Mỹ cải đạo, vốn chọn pháp môn mình thích nhất là Thiền định hay pháp môn nào mà họ nghĩ sẽ đạt đến trạng thái tỉnh thức nhanh nhất, cộng đồng Phật tử di dân Á châu hiểu rõ rằng tu tập là một phần của trải nghiệm cuộc sống. Đó là một sự tu tập mà ta chia sẻ với con cái. Đó là một sự tu tập mà ta mang theo khi ra khỏi chùa. Điều đó không có nghĩa là ta không hành Thiền, mà có nghĩa là cần hiểu rằng bối cảnh mà ta tu tập thì cần tương ứng với truyền thống tu tập và tông môn mà ta đã chọn. Tôi sẽ không muốn khuyến khích rằng tất cả Phật tử đổi đạo hãy nhảy ngay vào những phương pháp tu tập vốn là truyền thống của các pháp tu Á châu. Tôi chỉ muốn nói rằng các bạn hãy chọn pháp tu nào tốt nhất cho bạn, nhưng hãy chọn lựa [khi đã cứu xét] toàn diện và với tất cả sáng suốt.
Việt dịch và hình minh họa:
Trí Tánh Đỗ Hữu Tài
[Nguồn Anh ngữ: http://www.tricycle.com/feature/pursuing-american-buddhism]


GHI CHÚ (của người dịch):
[1] tương nhập /interpenetrating và tương tức/interbeing là hai thuật ngữ Phật học mô tả mối quan hệ (hay vận động) của vạn pháp trong Kinh Hoa Nghiêm / Avatamsakia Sutra.
[2] “Tự do và công lý cho mọi người” là dịch từ câu “liberty and justice for all” trong Lời thề Trung thành Pledge of Allegiance của công dân Mỹ nguyện trung thành với Quốc kỳ và nền Cọng hòa Mỹ.
[3] Xin xem đoạn phim The Story of Zen Mountain Monastery về đời sống tu tập và sinh hoạt hằng ngày trong một Thiền viện Mỹ: http://www.youtube.com/watch?v=LIYTXLOB7Jc
[4] Stephen Batchelor nguyên là một tăng sĩ người Anh, xuất gia theo cả hai truyền thống Mật tông (ở Dharamsala, Ấn Độ, 1974) và Thiền tông (ở Songgwangsa, Hàn Quốc, 1981). Nhưng sau đó, ông xuất tu và trở thành một học giả, giáo sư và tác giả của nhiều cuốn sách nỗi tiếng về Phật học. http://en.wikipedia.org/wiki/Stephen_Batchelor_(author)
[5] Từ “hybrid” của tiếng Anh nghĩa là “lai giống”, “lai chủng loại”, được dùng đầu tiên trong lãnh vực Sinh học. Sau đó, được dùng trong các lãnh vực khác và không còn mang nguyên nghĩa là lai “giống” nữa. ( http://en.wikipedia.org/wiki/Hybrid ). Tiếng Việt hình như chưa có từ để dịch chữ “hybrid”. Thường thường, tiếng Việt ghép những thành tố tạo ra tình trạng “lai” nầy, ví dụ như “Thiền-Tịnh song tu”, “xe hơi điện-xăng” (hybrid car).
[6] Theo giáo sư Robert Thurman (Buddism Studies – Columbia U), tên gọi “Phật giáo Nikaya” là do giáo sư Maatoshi Nagatomi của Đại học Harvard sáng chế ra như một cách thế để tránh dùng thuật ngữ Tiểu Thừa.
[7] “Các hệ thống tu tập để phát triển Trí huệ đó ngày nay được biết đến dưới các từ ngữ chuyên môn là Vipassana dhura, Minh Sát học. Danh từ Vipassana dhura, Minh Sát học, đối ngược với danh từ Gantha dhura, Kinh Điển học, cả hai ngành nầy ngày nay được xem như hai phương diện của sự tập luyện và bổ túc cho nhau. Minh Sát học là môn học hướng nội, thu hẹp chặt vào sự huấn luyện tâm linh, chẳng màng đến kinh sách. Cả hai danh từ, Vipassana dhura và Gantha dhura, đều chẳng thấy ghi trong Tam Tạng Kinh Điển; cả hai đều được nói đến trong kinh sách về sau” Theo http://www.dhammatalks.net/Vietnamese/Buddhadasa_Bhikkhu_Thu_ban_cho_nhon_loai.htm]


Kích Động Lòng Yêu Nước Cực Đoan - Đào Văn Bình

Kích Đng Lòng Yêu Nước Cc Đoan
Đào Văn Bình
15-Dec-2012
Yêu nước là tình cảm thiêng liêng, cao quý không một thứ tình cảm nào có thể sánh bằng. Yêu cha yêu mẹ, yêu thầy yêu cô, yêu bạn yêu bè, yêu quê cha đất tổ, thậm chí “tử vì đạo” cũng không thể sánh được với lòng yêu nước. Bởi vì “tử vì đạo” là chết cho tôn giáo riêng của mình chứ chưa phải chết cho đất nước.
Chính vì lòng ái quốc thiêng liêng, cao quý như thế cho nên khắp nơi trên thế giới, tại thủ đô hoặc các thành phố hoặc những nơi gọi là di tích lịch sử, dân tộc nào cũng có truyền thống tạc tượng, lập tượng đài…để nhớ và tôn vinh những vị đã được cả dân tộc ghi nhận là “những nhà ái quốc.” Riêng dân tộc ta còn lập miếu đền - suốt năm nhang khói - không phải chỉ để tôn thờ mà còn để nhắc nhở con cháu muôn ngàn đời sau về lòng ái quốc. Khi nhìn thấy miếu đền, chúng ta thấy lịch sử sống lại và các vị anh hùng dân tộc vẫn còn ở với chúng ta.
Sống trong lòng dân tộc mà một người nào đó không có lòng ái quốc thì giống như một thứ “ngoại kiều” trục lợi trên quê hương mình mà không hề “khóc cười theo mệnh nước nổi trôi”. Không có lòng ái quốc giống như “gỗ mục” như “bèo giạt mây trôi” - thời bình có thể làm gián điệp cho ngoại bang còn khi đất nước lâm nguy có thể sẵn sàng làm tay sai bán nước nếu bản thân mình hoặc gia đình mình có lợi.
Mặc dù lòng ái quốc thiêng liêng và cao cả như thế nhưng không phải là chuyện khó làm. Tùy theo hoàn cảnh, trình độ và vị trí - mỗi người có thể bày tỏ lòng yêu nước một cách khác nhau.
1.- Đối với người bình thường (thứ dân) thì trong thời bình là một công dân tốt, đóng thuế đầy đủ, tuân thủ luật pháp quốc gia. Thời chiến thì bản thân mình hoặc khích lệ con em hăng hái tòng quân giết giặc, tham gia vào các công binh xưởng, các nhà máy, nông công trường cung cấp tất cả những gì cần thiết cho chiến tường, bỏ bớt những ham thích cá nhân (xin xem “Hịch Tướng Sĩ” của Trần Hưng Đạo) trong tinh thần “hâu phương yểm trợ tiền tuyến”. Như thế có thể gọi là một công dân yêu nước.
2.- Nếu là một người khá giả có thể đóng góp tiền bạc cho chính phủ để mua sắm vũ khí, yểm trợ cho binh sĩ ngoài tiền tuyến và gia đình họ. Như thế gọi là một công dân danh dự của đất nước.
3.- Khi quốc biến, nếu quốc gia cần cũng phải cởi áo tu hành để theo tiếng gọi của non sông. Như thế gọi là bậc tu hành yêu nước.
4.- Dũng cảm chiến đấu, khích lệ đồng đội chiến đấu, tạo nên những chiến công hiển hách như thế gọi là quân nhân yêu nước, hoặc cao hơn - một anh hùng.
5.- Dù sức yếu nhưng tử chiến, quyết không đầu hàng giặc như thế gọi là “dũng tướng” được cả dân tộc tiếc thương như Cụ Hoàng Diệu và Phò Mã Nguyễn Lâm tuẫn tiết ở Thành Hà Nội trước sức công phá của giặc Pháp.
6.- Bị giặc bắt vẫn hiên ngang không khuất phục mà dõng dạc hô to “Ta thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc ! “ như Trần Bình Trọng là khí phách nuôi dưỡng uy linh dân tộc.
7.- Đất nước bị Thực Dân Pháp đô hộ, dày xéo, nhục mạ, bóc lột… sức yếu không thể làm cách mạng hoặc dấy binh khởi nghĩa, sáng tác “những vần thơ rướm máu” để nói lên nỗi nhục của dân tộc như Cụ Nguyền Đình Chiểu là bậc chí sĩ yêu nước.
8.- Trước thế nước ngả nghiêng không “bàn thối”, xốc gươm giết kẻ phản quốc như Cù Thị, Ai Vương, Thiếu Qúy và đoàn tùy tùng của sứ Tàu để chặn đứng âm mưu dâng nước ta cho nhà Hán như thế gọi là “bầy tôi lương đống” một lòng vì dân vì nước, lưu danh muôn thuở: Tể Tướng Lữ Gia.
9.- Thấy dân chúng lầm than trước nạn Bắc Phương giày xéo, dấy binh, tập họp dân chúng xây dựng lực lượng vũ trang khởi nghĩa, đánh đuổi quân thù, kiến tạo nền độc lập tự chủ dù không lâu dài … như hai Bà Trưng-Triệu là biểu tượng tuyệt vời của lòng yêu nước của dân tộc ta.
10.- Đất nước bị quân xâm lược đô hộ, bóc lột, giày xéo, nhục nhã… hy sinh đời sống cá nhân, bôn ba làm cách mạng, ngục tù không sờn chí, khơi dậy lòng ái quốc trong quần chúng, từng bước xây dựng cơ sở cách mạng và lực lượng vũ trang rồi thanh thế mỗi lúc mỗi mạnh, cuối cùng đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi bờ cõi, xây dựng nền độc lập tự chủ…người lên đoạn đầu đài, kẻ bỏ thân nơi chiến địa, người bị lưu đày, người chết trong ngục tù… đều là các anh hùng của dân tộc.
11.- Không phải chỉ sống trên quê hương mới thương dân yêu nước. Có rất nhiều người sống xa Tổ Quốc suốt đời mà vẫn nhớ về cội nguồn. Trong Thế Chiến I, nhiều người Việt Nam bị bắt đi lính cho Pháp. Sau khi chiến tranh chấm dứt, kẻ sống sót trở về được gia nhập quốc tịch Pháp, hưởng hưu bổng, lấy vợ Pháp, sinh con đẻ cái, nhận nơi này là quê hương thứ hai - nhưng Việt Nam vẫn canh cánh bên lòng. Có rất nhiều người du học hoặc trí thức trốn tránh ách thực dân lưu vong qua Pháp rồi trở thành giáo sư đại học, khoa học gia, viện sĩ Viện Hàm Lâm...tuy sống ở đó, tuân thủ luật pháp xứ người nhưng lòng thì vẫn hướng về quê cha đất tổ và luôn có những việc làm ái quốc.
Lòng yêu nước có sức mạnh vạn năng. Nó có thể tạo nên những chiến công hiển hách, xây dựng đất nước từ nô lệ trở thành độc lập, từ bị ngoại bang khinh rẻ trở nên được kính nể, từ đống hoang tàn đổ nát trở nên phú cường như Nhật Bản, Do Thái chẳng hạn. Một dân tộc có lòng yêu nước, nếu có lãnh đạo và được tổ chức tốt, dù nhỏ bé có thể đánh thắng bất kỳ một đạo quân xâm lược hùng mạnh nào. Thông thường lòng yêu nước được khơi dậy khi:
- Đất nước bị ngoại bang xâm chiếm, đô hộ.
- Đất nước bị ngoại bang đe dọa, uy hiếp.
- Bờ cõi bị xâm lấn.
- Danh dự của đất nước bị tổn thương.
- Một đôi khi lòng yêu nước còn được bộc lộ qua những trận đấu thể thao như “Giải Túc Cầu Thế Giới” (World Cup) chẳng hạn. Nhưng lòng yêu nước này chỉ là thứ tự ái, lửa rơm sớm lụi tàn.
Ngày nay khi một nước nhỏ bị nước lớn hiếp đáp, lòng yêu nước được thể hiện qua hình thức biểu tình- thường là trước các tòa đại sứ hoặc tòa lãnh sự của nước thù nghịch. Những cuộc biểu tình này thường là tự phát.
Mới đây nhất khi Hoa Lục xâm lấn Bãi Cạn Scarborough của Phi Luật Tân và đưa tàu chiến và tàu ngư chính tới Đảo Senkaku để uy hiếp Nhật Bản thì tại ba quốc gia nói trên đều nổ ra các cuộc biểu tình. Tuy nhiên phong cách biểu tình tại ba quốc gia đó lại hoàn toàn khác nhau.
- Tại Phi Luật Tân, dân chúng chỉ biểu tình một hai lần rồi để chính phủ tìm phương giải quyết và cũng không bày tỏ thái độ, hiếu chiến hoặc “bài Hoa” đập phá các sơ sở thương mại của người Tàu.
Phippines tổ chức biểu tình trật tự tại Manila. http://www.bbc.co.uk/news/world-asia-18030805

- Nhật Bản, sau những cuộc biểu tình ở Trung Quốc, họ chỉ tổ chức một cuộc biểu tình quy mô trong ôn hòa, trật tự và không hề có khẩu hiệu khiêu khích.
Nhật biểu tình tổ chức trật tự - 22 Sep 2012
http://bigstory.ap.org/article/japan-anti-china-protest-over-islands-row


Cảnh Trung Hoa biểu tình ở Beijing ngày 15 tháng 9, 2012
Đập phá của hàng bán đồ Nhật - 16 Sep 2012 -
http://www.theatlantic.com/infocus/2012/09/
- Riêng tại Hoa Lục, Tuổi Trẻ Online đưa tin: “ Theo hãng AFP, hôm qua 16 Tháng 9, làn sóng biểu tình phản đối Nhật tiếp tục bùng nổ tại 50 thành phố lớn ở Trung Quốc. Tại Thẩm Quyến, đám đông biểu tình đã cầm khẩu hiệu đòi “tắm máu” nước Nhật. Nhóm này đã đụng độ với cảnh sát. Lực lượng an ninh đã phải dùng tới hơi cay và vòi rồng để giải tán đám đông cuồng nộ. Kênh truyền hình Cable TV của Hongkong cũng đã cho phát các đoạn băng quay cảnh hơn 1000 người biểu tình đốt cờ Nhật và tràn vào đập phá một khách sạn bên cạnh Lãnh Sự Quán Nhật ở Quảng Châu. Những người biểu tình còn đòi gây chiến và cấm vận kinh tế Nhật. Ở Thanh Đảo, mười nhà máy hợp tác với công ty Nhật bị dân Trung Quốc đập phá. Báo Yomiuri Shimbun dần nguồn Đại Sứ Quán Nhật tại Bắc Kinh cho biết đã xảy ra các vụ phóng hỏa và các dây chuyền sản xuất bị phá hủy. Theo Reuters, nhiều đại lý xe hơi Toyota ở Trung Quốc bị đốt phá, một số lượng lớn xe bị phá hủy. Nhiều siêu thị và trung tâm thương mua sắm do Nhật đầu tư tại ít nhất năm thành phố ở Trung Quốc bị đập phá. Đám biểu tình còn xông vào các siêu thị hôi của. Hãng tin BBC dẫn lời một nhân chứng ở Thành Phố Tây An kể máy ảnh của anh đã bị giật và đập phá vì mang nhãn hàng của Nhật. Các xe hơi mang thương hiệu Nhật bị chận lại một cách ngang nhiên trên đường phố, tài xế bị lôi ra ngoài, còn chiếc xe đó bị đập phá, đốt cháy. Trên mạng SinaWeibo, nhiều cư dân mạng Trung Quốc tiết lộ họ không dám lái xe thương hiệu Nhật trong hai ngày cuối tuần. Tại Bắc Kinh, nhiều người quá khích đốt cờ Nhật. Khung cảnh tương tự cũng diễn ra trước Lãnh Sự Quán Nhật ở Thượng Hải.”
Rồi vào ngày 30/11/2012 mới đây, khi hai tàu cá của Hoa Lục cố tình tiến sát để làm đứt giây cáp của tàu thăm dò dầu khí Bình Minh của Việt Nam thì trên mạng Facebook đã xuất hiện những đoạn Video ngụy tạo hình ảnh hải quân Trung Quốc bắn chìm một tàu thăm dò dầu khí của Viêt Nam - không ngoài mục đích kích thích thanh niên Tàu cho thêm hăng máu.
Chiến dịch khích động lòng yêu nước cực đoan của Trung Quốc đã gây tác hại nghiêm trọng về kinh tế cho cả hai Hoa- Nhật và làm căng thẳng thêm tình hình. Hiện nay số lượng sản xuất xe hơi của các hãng Toyota và Honda tại Hoa Lục đã giảm 40% và Nhật Bản đang suy tính chuyển hướng các nhà máy sản xuất xe hơi qua Thái Lan và Việt Nam. Một cuộc thăm dò dư luận do chính phủ Nhật tiến hành mới đây cho thấy 80% dân Nhật bắt đầu chán ngán người Tàu, điều mà từ 1950 tới nay không hề có.
Việc khích động lòng yêu nước cực đoan, bài ngoại gây khó khăn cho tiên trình hỏa giải (nếu có) và cuối cùng”gậy ông đập lưng ông” giống như “phù thủy lụy âm binh”. Khi mà hằng trăm ngàn thanh niên thiếu nữ xuống đường hò hét những khẩu hiệu hiếu chiến, sắt máu mà sau đó chính quyền không làm được thì sẽ bị tố cáo là ươn hèn.
Tại Hoa Lục hiện nay vẫn có những học giả công tâm như Lý Lệnh Hoa nói rằng không có một cơ sở nào pháp lý nào để chứng minh Đường Lưỡi Bò là của Trung Quốc. Rồi khi Ô. Mã Anh Cửu ồn ào “ăn có” vào chuyện Senkaku, cựu Tổng Thống Lý Đăng Huy (1988-2000) cũng khẳng khái nói Senkaku chẳng ăn nhập gì tới Đài Loan thì lập tức hai ông này bị đám đông cuồng nhiệt chụp cho cái mũ “phản quốc”! Thực ra hai ông này có phản quốc gì đâu. Họ chỉ cất lên tiếng nói trung thực và hoàn toàn vì lợi ích của Trung Quốc là xin đừng đẩy 1.3 tỉ dân vào một cuộc chiến hoàn toàn phi nghĩa không lối thoát.
Đồng ý là ngoài những tranh chấp về Đảo Senkaku, Trung Hoa và Nhật Bản còn có những cọ sát đau thương về lịch sử, đó là Cuộc Thảm Sát Nam Kinh năm 1937 khi Nhật chiếm đóng Trung Hoa, khiến người Trung Hoa không sao quên được mối hận này, khi mà họ sắp sửa trở thành siêu cường và muốn rửa nhục. Thế nhưng thế giới ngày hôm nay lại không giải quyết những cọ sát của lịch sử theo kiểu “thù dai “ như người Tàu.
Lịch sử thì không thể thay đổi nhưng chính sách ngoại giao thì có thể thay đổi cho phù hợp với quyền lợi quốc gia mỗi thời kỳ.
- Thử hỏi con số 1 triệu người Việt chết đói năm Ất Dậu (1945) khi Nhật chiếm đóng Đông Dương có kinh hoàng và uất hận hơn 300,000 người chết trong Cuộc Thảm Sát Nam Kinh không?
Thế nhưng người Việt lại biết quên đi quá khứ để hướng về tương lai. Trước 1975, Nhật Bản đã viện trợ cho Miền Nam dưới kế hoạch “Bồi Thường Chiến Tranh” bằng các công trình như Nhà Máy Xi-măng Hà Tiên, Khu Kỹ Nghệ Biên Hòa, Thủy Điện Đa Nhim, Lò Nguyên Tử Đà Lạt v.v.. Còn bây giờ, Nhật Bản cũng đã viện trợ, cho vay, hùn vốn giúp Việt Nam qua các công trình như Cầu Cần Thơ, Nhà Máy Điện Nguyên Tử Ninh Thuận, phóng vệ tinh viễn thông, xây dựng Trung Tâm Vũ Trụ lớn nhất Đông Nam Á ở Hòa Lạc (Hà Nội), giúp huấn luyện thủy thủ tàu ngầm và là quốc gia có số đầu tư lớn nhất vào Việt Nam với nhiều công trình và 208 doanh nghiệp.
- Nhìn rộng hơn nữa trong Thế Chiến II, Hoa Kỳ đã tử chiến với Đức và Nhật như thế nào? Cả triệu người đã ngã xuống thế nhưng sau đó họ trở thành đồng minh chiến lược cho tới bây giờ vì họ biết quên đi quá khứ để hướng về tương lai.
Ngụy tạo chứng cớ về chủ quyền biển đảo, bịa đặt tin tức, kích thích lòng yêu nước cực đoan cùng sự hung hăng hiếu chiến, Hoa Lục khiến Đông Nam Á, Nhật Bản và cả thế giới lo sợ.
Nhưng khác với Hoa Lục, Nhật Bản không ồn ào, không kích động quần chúng, lầm lì như một kiếm sĩ đi trong mùa đông tuyết phủ. Nhật Bản đang âm thầm chuyển hướng từ “phòng vệ” qua hợp tác và viện trợ để mở rộng “bản đồ quân sự “ của mình. Trước sự do dự của Mỹ trong việc yểm trợ đồng minh, Nhật Bản thay vì tiếp tục theo sách lược “núp dưới cái dù của Mỹ” như trong suốt thời kỳ Chiến Tranh Lạnh, đang tìm cách “tự đứng trên đôi chân” của mình.
Theo Nghiên Cứu Biển Đông thì “Nhật Bản đang âm thầm bày thế trận để chống lại Trung Quốc tại Đông Nam Á, cung cấp chuyên gia quân sự giúp đào tạo về giảm nhẹ thiên tai cho Campuchia và Đông Timo; Nhật Bản cũng có kế hoạch giúp đào tạo y tế cho các thủy thủ làm việc trên tàu ngầm mới mua của Việt Nam. Nhật Bản đang đàm phán về việc cung cấp 10 tàu tuần duyên nhỏ cho Phi Luật Tân với giá khoảng 12 triệu đô-la/chiếc. Nhật Bản cũng cho biết có thể cung cấp những tàu tương tự như vậy cho Việt Nam. Trong năm tới, Nhật Bản sẽ tăng gấp đôi viện trợ quân sự cho Indonesia và Việt Nam. Úc Đại Lợi, Việt Nam và Mã Lai cũng có thể là nước đầu tiên được phép mua các tàu ngầm Lớp Soryu của Nhật là thế hệ tàu ngầm tấn công chạy bằng động cơ diesel tân tiến nhất thế giới.” Lời tuyên bố ngày 6/12/2012 của Tư Lệnh Thái Bình Dương - Đô đốc Samuel Locklear mà Đài VOA đưa tin “ Mỹ từ chối hỗ trợ đồng minh Châu Á trong tranh chấp Biển Đông và Đông Bắc Á với Trung Quốc.” đã khẳng định chọn lựa “tự đứng trên đôi chân” là chọn lựa sinh tử của Nhật Bản.
Lòng ái quốc giống như tấm gương cần được lau chùi, như ngọn lửa thiêng không bao giờ để tắt. Khi thế nước nghiêng ngả, ngoại bang chực chờ xâm lấn - biểu tỏ lòng yêu nước là điều phải có. Nhưng cần biểu tỏ một cách chừng mực, vừa đủ để không gây khó khăn cho chính quyền, vừa phải đối đầu với ngoại bang vừa phải đối đầu với các cuộc biểu tình trong nước, cách mà người dân Nhật Bản và Phi Luật Tân đang hành xử.
Cách đây ít lâu khi Pháp phản đối cuộc xâm lăng của Mỹ vào Iraq, đài truyền hình cực đoan bảo thủ của Mỹ là Fox News đã kích động phong trào tẩy chay hàng hóa Pháp nhưng không thành công. Sở dĩ Fox News không thành công là vì nhận thức của dân Mỹ rất cao. Nếu Mỹ chính thức phát động phong trào bài Pháp thì Pháp lập tức trả đũa bằng cách tẩy chay hàng hóa Mỹ. Khi đó Mỹ sẽ lao vào cuộc chiến tranh kinh tế vô ích với Pháp trong khi Mỹ còn đang cố gắng thuyết phục Âu Châu đứng về phe Mỹ trong cuộc chiến tranh này.
Yêu nước là điều kiện CẦN nhưng chưa Đủ. Lịch sử chứng tỏ rằng dù lòng yêu nước có tuyệt vời, cuồng nhiệt tới đâu đi nữa mà sức yếu thì vẫn bị diệt vong. Song song với lòng yêu nước, muốn giữ nước cần phải chuẩn bị chiến tranh như: mua sắm vũ khí tối tân, dự trữ lương thực và nguyên liệu chiến lược, huấn luyện binh sĩ sẵn sàng chiến đấu, cảnh giác cao độ, có kế hoạch phòng thủ tinh vi, trong thì trên dưới một lòng, vỗ an dân chúng, ngoài thì tranh thủ chính nghĩa, liên kết xa gần để tạo thế liên minh, âm thầm, không tỏ ra hiếu chiến, bề ngoài thì nhã nhặn, nhịn nhục nhưng bên trong là cả một khối thép mà khi kẻ thù đụng đến thì “ôm đầu máu” hay “chui vào ống đồng” mà chạy.
Câu chuyện nuôi gà chọi Thời Xuân Thu Chiến Quốc cho chúng ta bài học đó. Truyện kể rằng Tề Hoàn Công là ông vua rất mê đá gà. Trong bầy có con gà quý gọi là Kim Kê. Tề Hoàn Công cho tuyển một bậc thầy về nuôi gà chọi để chăm sóc con này. Cứ lâu lâu Tề Hoàn Công lại hỏi con Kim Kê đem đá được chưa? Ông thầy gà đáp: Dạ chưa.
Tề Hoàn Công hỏi: Tại sao vậy?
Vị kê sư đáp: Con Kim Kê chưa đá được vì tính nó chưa đằm.
Tề Hoàn Công lại hỏi: Chưa đằm là sao?
- Con Kim Kê còn hăng lắm. Nghe gà khác gáy nó lồng lộn tức khí muốn chui ra khỏi chuồng đá nhau ngay.
Ít lâu sau Tề Hoàn Công lại hỏi: Con Kim Kê đá được chưa?
- Cũng vẫn chưa được. Vì con Kim Kê tuy nghe tiếng gà khác gáy nó bớt tức khí nhưng hãy còn hung hăng, ra trận chưa chắc thắng.
Ít lâu sau Tề Hoàn Công lại hỏi: Gà đá được chưa?
-Tâu đại vương, được rồi.
Tề Hoàn Công hỏi: Tại sao vậy?
Vị kê sư đáp:
- Thần đã ra công ngày đêm tập cho nó bình tĩnh. Bây giờ nghe gà khác gáy nó không lồng lộn chạy quanh chuồng để tìm lỗ chui ra, cũng không gáy đáp lại mà nó đứng ngửng cao đầu nghe ngóng chứng tỏ nó đang suy nghĩ về đối thủ cho nên thần nghĩ rằng con Kim Kê có thể xuất trận và có cơ may thắng.
Sau hết, một nước nhỏ muốn thắng một cường địch mạnh hơn mình cả chục lần không phải dễ. Điều tất yếu là phải có chính nghĩa và toàn dân phải được trang bị bằng lòng ái quốc. Thế nhưng xin nhớ cho lòng ái quốc là tình cảm vô cùng thiêng liêng, nó cần được khơi dậy đúng lúc. Lòng yêu nước không phải là một thứ “thời trang” để trình diễn. Ồn ào để tỏ ra mình yêu nước có khi chỉ là yêu nước “dỏm”, giặc tới thì trốn hoặc hủy hoại thân thể để được “miễn dịch” hoặc mượn tiếng du học để trốn lính, hoặc chạy chọt để xin thuyên chuyển về đơn vị không tác chiến. Kẻ lầm lầm, lì lì sống bình thường, không bàn tán gì về quốc sự, khi quốc biến có khi lại là kẻ có lòng yêu nước tuyệt vời không biết chừng. Xin nhớ cho chỉ khi nào đất nước nổ ra chiến tranh mới biết ai thật sự yêu nước, ai yêu nước “dỏm”: “Gia bần tri hiếu tử, quốc loạn thức trung thần”.
Tham vọng cuồng điên về lãnh thổ và biển đảo đã là một sai lầm, kích động thêm lòng yêu nước cực đoan - đã đẩy Hoa Lục vào đường hầm không lối thoát. Có thể vì thấy mình quá mạnh cho nên Hoa Lục không còn biết sợ ai nữa chăng? Ban bố lệnh chặn giữ, khám xét các tàu qua lại trên Biển Đông mới đây, Hoa Lục đã khiến “Biển Đông” không còn là vấn đề song phương, đa phương nữa mà là “Vấn đề quốc tế”. Qua chuyển động mới nhất này, Hoa Lục đã gửi cho thế giới một tín hiệu là “Chúng tôi đang làm chủ Biển Đông", không có luật pháp quốc tế ở đây mà chỉ có luật pháp của Trung Quốc. Hành động ngang ngược này chắc chắn đầy Đông Nam Á và thế giới vào một cuộc khủng hoảng mới. Nhưng xin các nhà lãnh đạo ở Bắc Kinh nhớ cho chuyện Biển Đông lớn hơn cả chuyện Vịnh Ba Tư. Vịnh Ba Tư không có các đại cường dính vào. Ngoài các quốc gia Đông Nam Á - Biển Đông là hải lộ sinh tử của Hoa Kỳ, Nhật Bản, Nam Hàn, Đài Loan, Úc Châu, Ấn Độ và Nga. Không một ai có quyền độc chiếm hay áp đặt một luật lệ riêng - nói khác - làm bá chủ vùng này. Kẻ nào có tham vọng bá chủ vùng này tức thách thức với toàn thế giới.
Đào Văn Bình
( California 14-12-2012)



Warning: require(../../TONGIAO/tgD/ListDVB.inc.php) [function.require]: failed to open stream: No such file or directory in /home/content/65/9872265/html/TONGIAO/tgD/DaovBinh7.php on line 331

Fatal error: require() [function.require]: Failed opening required '../../TONGIAO/tgD/ListDVB.inc.php' (include_path='.:/usr/local/php5_3/lib/php') in /home/content/65/9872265/html/TONGIAO/tgD/DaovBinh7.php on line 331